Cuộc đời
mỗi con người là một ẩn số. Muốn hiểu hơn về những bí ẩn đó, mời bạn đọc cuốn
sách này. Cuốn sách viết về những bí ẩn của cuộc đời mỗi con người.
Đọc để hiểu về bản thân. Đọc để hiểu về cuộc đời. Có
hiểu bản thân, có hiểu những quy luật và cung cách ứng xử của con người với
nhau thì nhà doanh nghiệp mới có thể xếp sắp cuộc sống của mình, biết điều gì
là quan trọng, biết điều gì thực sự tạo nên hạnh phúc để rồi theo đuổi nó. Hạnh
phúc đối với nhà doanh nghiệp không phải là tiền, hạnh phúc với họ là được vượt
qua những giới hạn của bản thân, thực hiện những công việc vĩ đại, làm cho cuộc
sống nhân loại ngày một tốt đẹp hơn. Hãy đọc để bách chiến bách thắng, phát
triển sự nghiệp vẻ vang.
Cuốn sách đặc biệt quan trọng trong việc điều hành
cá nhân và quản lý nhân sự.NHỮNG BÍ ẨN CỦA CUỘC ĐỜI
Dale
Carnegie
Dịch giả:
Nguyễn Hữu Kiệt
Nhà xuất
bản: Văn hóa Thông tin
CHƯƠNG 1
Nói về sự đau khổ của thế gian,
người ta đã từng nghe nói về một chuyện cổ xưa và đầy ý nghĩa. Đó là truyện tích
thái tử Sĩ Đạt Ta, mà về sau người ta được biết dưới danh hiệu đức Phật, tức là
bậc Toàn Giác. Phụ Vương của Sĩ Đạt Ta là một vị vua rất giàu sang và có thế
lực lớn ở miền Bắc Ấn Độ. Người quyết định truyền ngôi cho Thái Tử, và muốn giữ
Thái Tử ở trong cung, không muốn cho Thái Tử nhìn thấy cảnh lầm than, đau khổ
của người đời. Thái Tử sống từ nhỏ trong cung cấm, và đến lúc trưởng thành, vua
cha mới cưới cho Thái Tử một vị Công Chúa nhan sắc đẹp tuyệt trần. Từ nhỏ đến
lớn, Thái Tử không hề bước chân ra khỏi bốn vách thành bao bọc chung quanh
Hoàng cung một lần nào. Đến lúc Thái Tử sinh hạ được một hoàng nam, người mới
thấy nhàm chán cảnh cung điện và tọc mạch muốn biết có những gì ở cõi thế gian
bên ngoài. Người mới tìm cách đánh lừa những tên lính gác cửa thành, và lần đầu
tiên người mới nhìn thấy cảnh thành phố tấp nập, dân cư đông đão và cảnh đời
thực tế bên ngoài.
Trong chuyến ngao du đó, người
nhìn thấy ba cảnh tượng làm cho người chú ý: Đó là cảnh tượng một người gia,
một người bịnh và một xác chết. Thái tử vô cùng xúc động, bèn hỏi tên đánh xe
đi theo Ngài, tại sao lại có những cảnh đau khổ như thế? Khi được biết rằng đó
là những điều thường vẫn xảy ra hằng ngày và đó là cái số phận chung cho cả mọi
người, không ai tránh khỏi, Thái Tử lấy làm buồn bực vô cùng đến nỗi Ngài không
còn muốn sống cuộc đời sung sướng xa hoa như trước nữa. Ngài trở về cung, bèn
từ giã tất cả mọi gia tài sản nghiệp, gia đình vợ con, và quyết định xuất
gia tầm Đạo để cứu vớt nhân loại và chúng sinh khỏi sự lầm than đau khổ. Sau
nhiều năm khổ công tu luyện và tham thiền quán tưởng, Ngài bèn thoát nhiên đại
ngộ, trở nên một bậc Toàn Thông, đắc Vô thượng Đạo, chánh đẳng chánh giác, tức
là đắc Đạo thành Phật vậy. Khi đó Ngài mới đem truyền dạy Đạo mầu thoát khổ cho
thế gian.
Chúng ta là những người trần gian
phàm tục, không mấy ai có thể làm giống như Phật Thích Ca, nhất thời dứt bỏ tất
cả giàu sang, quyền thế, danh vọng, tình yêu và hạnh phúc gia đình để theo đuổi
một mục đích mơ màng viễn vông như là việc đi tìm Chân Lý, và tìm hiểu bí quyết
của cuộc đời! Tuy nhiên, mỗi người trong chúng ta đều có kinh nghiệm về sự đau
khổ ít nhất một vài lần trong đời mình và đã có lúc phải tự hỏi: Tại sao con
người bị đau khổ? Và họ có thể làm gì để thoát khổ?
Những nhà văn có óc không tưởng
đã phác họa một thời kỳ trong tương lai mà trong bốn điều khổ của đức Phật nêu
ra, thì hai điều sẽ không còn nữa, đó là: Bệnh và lão. Nhưng mặc dầu khoa học
hiện đại đã có bao nhiêu những phát minh mới mẻ tân kỳ, người ta vẫn chưa có
triển vọng tìm ra phương pháp giải quyết vấn đề mà con người vẫn coi như là một
kẻ thù lớn nhất, đó là Sự Chết! Trong khi chờ đợi, và trong khi mà một sự cải
tạo thế giới trên một bình diện hợp lý hơn vẫn chưa đem đến cho nhân loại sức
khỏe, an ninh, và hạnh phúc, thì chúng ta còn phải đương đầu với muôn ngàn sự
bấp bênh, nguy cơ và đau khổ nó hăm dọa nền hạnh phúc và sự bằng an trong tâm
hồn chúng ta!
Những tai họa thiên nhiên như hỏa
hoạn, ngập lụt, bệnh tật truyền nhiễm, động đất, chiến tranh,... đó chỉ là mới
kể một vài sự hăm dọa từ bên ngoài. Còn nói về đời sống bên trong, tức là về
phần nội tâm thì con người có bao nhiêu những sự yếu đuối, bất toàn, như sự ích
kỷ, ganh ghét, tham lam, thù hận, si mê... Nó là bao nhiêu những nguồn gốc sinh
ra sự đau khổ cho mọi người và cho những kẻ đồng loại ở chung quanh.
Trong những giờ tươi sáng, khi
chúng ta cảm thấy trong lòng vui vẻ hân hoan vì tiếng nhạc réo rắt du dương,
hay khi nhìn thấy cảnh tượng tưng bừng rực rỡ của lúc bình minh, chúng ta cảm
thấy rằng trong vũ trụ hẳn có sự hòa vui và có ẩn giấu một ý nghĩa sâu xa thâm
trầm. Tuy nhiên, khi chúng ta quay trở về cõi đời thực tế với những sự va chạm
phũ phàng, những thất vọng não nề cay đắng, chúng ta không khỏi nêu ra những
câu hỏi tối hậu: Ý nghĩa và mục đích của cuộc đời là gì? Tôi là ai? Tại sao tôi
lại sinh ra ở đây? Tôi sẽ đi về đâu? Tại sao tôi phải chịu đau khổ? Có những
mối liên quan gì giữa tôi với người khác ở chung quanh? Và giữa con người với
cái sức mạnh vô hình huyền bí trong cõi thiên nhiên nó bao phủ cuộc đời chúng ta,
có một mối liên hệ như thế nào?
Những câu hỏi căn bản đó, nhân
loại đã từng nêu ra từ thuở bao giờ trong những thời đại quá khứ xa xăm. Ngày
nào người ta vẫn chưa tìm ra được câu giải đáp thì tất cả những giải pháp tạm
thời để làm dịu bớt sư đau khổ, dầu là những phương tiện vật chất hay tinh
thần, cũng đều là vô nghĩa và không có ích lợi gì. Ngày nào mà vấn đề đau khổ
của nhân loại vẫn chưa được giải quyết, thì người ta vẫn chưa giải quyết được
gì cả. Ngày nào mà trên thế giới còn có một sinh vật nhỏ mọn tầm thường nhất
đang quằn quại trong đau khổ mà người ta chưa giải thích nổi lý do, thì người
ta cũng vẫn chưa giải thích được điều gì cả, và quan niệm triết lý của chúng ta
về cuộc đời vẫn hãy còn là thiếu sót và bất toàn.
Từ những thời đại cổ xưa nhất,
loài người đã từng nêu ra những câu hỏi đó. Càng ngẫm nghĩ, họ càng cảm thấy
rằng những sự tranh đấu vất vả đau khổ của con người không phải là vô ích và vô
nghĩa lý như người ta tưởng, mà nó có một ý nghĩa nhờ bởi một sự liên quan lớn
lao nối liền con người và vũ trụ. Hoặc họ đã cảm thấy có sự hiện diện vô hình
của những đấng Thần Minh trong khu rừng vắng hoặc trên đồi cao và biết rằng mỗi
sinh vật, từ con người đến loài cầm thú, đều có một linh hồn: Rằng linh hồn đó
chỉ là tạm thời sống và chịu đau khổ một lúc ở cõi hạ giới, và sau khi chết sẽ
tìm thấy một đời sống an nhàn và hạnh phúc hơn. Hoặc họ nghĩ rằng ngoài ra cõi
trần gian đau khổ nầy, mà loài người sống trong sự hỗn tạp pha lẫn cả điều lành
và điều dữ, điều thiện và điều ác, còn có một cõi giới xa xăm nào đó, là nơi
thưởng phạt những hành động của họ ở thế gian. Những điều tin tưởng và giải
thích như trên đã từng được nêu ra kể đến hằng nghìn, có những điều hãy còn
giản dị thô sơ, có những điều tế nhị hơn, cũng có những điều hợp lý. Và vì bởi
một vài điều giải thích đó có vẻ hợp lý mà trên thế gian con người vẫn tiếp tục
sống và đương đầu với những nỗi khó khăn của họ một cách can đảm.
Có người tin tưởng ở đức Mahomet,
có người tin tưởng ở đức Phật, hoặc Chúa Jesus, hay đức Krishna. Có hằng muôn
người tin rằng đời người có thể giải thích bằng một lý do duy nhất, đó là sự
sống còn. Những người khác không cần tìm biết lý do gì cả, mà chỉ tận hưởng sự
vui sướng khoái lạc trong hiện tại.
Đối với những người sinh trưởng
trong nền giáo dục và tín ngưỡng đạo Gia Tô, thì sự giải thích về đời người và
những sự đau khổ của cuộc đời là như thế này: Con người có một linh hồn và linh
hồn vốn bất diệt; sự đau khổ là một thử thách đưa đến cho chúng ta, Thiên Đàng
hay Địa Ngục là những điều tưởng phạt tùy theo cách hành động và cư xử của
chúng ta trên thế gian. Những người đã từng chấp nhận sự giải thích đó không hề
tự hào rằng họ có đủ bằng chứng; đó là sự giải thích mà họ được hấp thụ của cha
mẹ và của giáo sĩ, chính những vị này cũng đã hấp thụ của những bậc phụ huynh
và các giáo sĩ của họ, và cứ như thế đi ngược thời gian cho đến khi người ta
tìm thấy uy quyền của một quyển sách gọi là bộ Thánh Kinh (Bible), và của một
người tên Jesus.
Hầu hết mọi người đều đồng ý: Bộ
sách này thật là hay tuyệt diệu, và đức Jesus, dầu rằng là một người hay là Con
của Chúa Trời, vốn là một nhân vật phi thường. Tuy nhiên, kể từ thời Phục Hưng
(Renaissance) cho đến nay, người Tây phương càng ngày càng trở nên hoài nghi
đối với những tín điều căn cứ trên uy quyền của một người: Bất cứ tín điều nào
mà không thể chứng minh được qua cái lò thí nghiệm khoa học đều phải gặp một sự
hoài nghi mỗi lúc càng tăng thêm.
Nhà thiên văn học Ptolémée nói
rằng mặt Trời xoay chung quanh Trái Đất; và đó là điều mà Hội Thánh Gia Tô đã
chấp nhận và truyền dạy. Tuy nhiên, nhà Thiên văn Copernic đã phát minh ra
những khí cụ thiên văn học để chứng minh rằng trái lại, chính Trái Đất xoay
chung quanh mặt Trời. Triết gia Aristote nói rằng nếu người ta làm rơi cùng một
lượt hai vật có trọng lượng khác nhau từ chỗ cao, vật nặng hơn sẽ rơi xuống đất
trước tiên, và Hội Thánh đã hoàn toàn chấp nhận nền triết học cùng sự phát minh
khoa học của Aristote. Tuy thế, với một cuộc thí nghiệm giản dị từ trên đài
nghiêng ở thành phố Pise, Galiée đã chứng minh rằng hai vật cùng đồng một dung
tích như nhau, nhưng trọng lượng khác nhau, lại rơi xuống đất cùng một lúc.
Trong bộ Thánh Kinh có nhiều đoạn
cho rằng Trái Đất vốn bằng phẳng; tuy nhiên Christophe Colomb và Magellan cùng
những nhà thám hiểm khác nữa của thế kỷ mười lăm đã làm đảo lộn giả thuyêt trên
đây bằng những chuyến du hành trên mặt biển, khởi hành từ phương Tây để đi về
phương Đông. Những sự chứng minh trên đây cùng với nhiều chứng minh khác nữa đã
lần lượt chỉ ra rằng người thời xưa không phải là hoàn toàn đúng. Do đó nảy
sinh ra quan niệm khoa học và óc hoài nghi của người thời nay.
Trong sự tranh đấu để sống còn,
con người không thể tránh khỏi sự đau khổ. Sự đau khổ này, dường như người ta
không tìm ra lý do nào khác hơn là nó không có mục đích gì cả. Sự chết chỉ là một
sự tan rã của những phân tử hóa học vật chất, ngoài ra không còn gì nữa.
Như vậy, người ta đã thay thế uy
quyền của bộ Thánh Kinh hay của đức Giáo Chủ bằng uy quyền của năm giác quan!
Với những ống kính hiển vi, viễn vọng kính, quang tuyến X, máy radar và những
phát minh tối tân khác, khoa học đã nới rộng tầm hoạt động của ngũ quan chúng
ta. Sự nhận xét bằng ngũ quan, tức thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác,
xúc giác, là nền tảng của mọi lý luận khoa học.
Tuy nhiên, trải qua vài chục năm
nay, người ta đã trở nên phức tạp hơn và hoài nghi hơn đối với những điều họ
hiểu biết hoặc tưởng rằng mình đã hiểu biết. Những khí cụ khoa học mà người ta
đã phát minh ra, đã chỉ cho họ thấy một cách mỉa mai rằng những giác quan của
con người thật là thiếu sót, bất toàn là dường nào và không thể giúp chúng ta
hiểu biết vũ trụ một cách thật sự. Những luồng sóng Hertziennes, chất phóng
quang, nguyên tử lực, đó là chỉ mới kể có một vài hiện tượng khoa học của thời
buổi hiện đại, đã chứng minh một cách rõ ràng rằng chung quanh chúng ta có
những luồng âm ba rung động và những mãnh lực vô hình; và những vi tử nhỏ bé
nhất của cõi vật chất đều là những kho chứa đựng tinh lực, hàm xúc tiềm tàng
một sức mạnh kinh khủng mà con người không thể tưởng tượng. Chúng ta biết rằng
những giác quan như tai, mắt ... Mà chúng ta dùng để tiếp xúc với ngoại giới,
cũng ví như những cửa sổ nhỏ hẹp của cái tòa nhà bé nhỏ là xác thân của chúng
ta. Sự nhậy cảm của con mắt chúng ta đối với ánh sáng giúp chúng ta tiếp nhận
chỉ có một phần nhỏ những luồng âm ba rung động của ánh sáng. Sự thụ cảm của lỗ
tai ta đối với âm thanh chỉ giúp cho chúng ta tiếp nhận có một bát độ nhỏ hẹp
trong cái biển âm thanh rộng lớn của vũ trụ. Nhiều loại thú cầm, chim muông,
côn trùng, sâu bọ có những thị giác, thính giác và khứu giác khác hẳn của loài
người; bởi đó vũ trụ của chúng nó bao hàm chứa đựng nhiều sự vật mà chúng ta
không nhận thấy và không thể nhận xét thấy rõ.
Người biết suy nghĩ không khỏi
lấy làm ngạc nhiên về hiện tượng này là con người vốn thường vẫn tự hào về trí
óc thông minh của mình, lại thua kém loài cầm thú, chim muông và sâu bọ về tầm
hoạt động của giác quan để nhận xét vũ trụ bên ngoài, và về điểm này họ cũng
thua kém cả những đồ dụng cụ khoa học mà trí óc siêu việt thông minh của họ đã
phát minh. Họ bắt đầu tự hỏi rằng làm sao họ có thể tự mình nhìn thấy và quan
sát những sự vật trong cõi vô hình mênh mông rộng lớn. Thí dụ, chúng ta hãy
tưởng tượng rằng chúng ta có thể nới rộng tầm hoạt động và nhận xét của giác
quan đến mức làm cho chúng ta trở nên nhậy cảm hơn đối với ánh sáng và âm
thanh, dẫu rằng chỉ hơn mức thường độ một ít mà thôi. Phải chăng chúng ta sẽ
nhận xét được nhiều sự vật mà trước kia chúng ta không hề nghe, thấy? Hoặc thí
dụ như một vài người trong chúng ta bẩm sinh ra đã có những giác quan phi
thường, với một tầm thu nhận rộng lớn hơn: Phải chăng là một điều tự nhiên nếu
những người này có thể nghe và thấy những sự vật mà chúng ta không thấy và
không nghe? Và phải chăng họ có thể nghe xa chẳng khác nào như một cái máy thu
thanh, và thấy xa dường như một cái máy vô tuyến truyền hình?
Đứng trước cái thế giới vô hình
huyền bí, vô tận bao la mà những khí cụ khoa học tối tân của thế kỷ 20 đã tiết
lộ cho chúng ta biết, thì người ta phải nhìn nhận sự thật của những điều kể
trên. Và nếu chúng ta nhìn lui về lịch sử loài người, thì chúng ta thấy có
nhiều trường hợp đặc biệt được ghi chép về những khả năng nhận xét phi thường
của một số người.
Một trong những người đó là ông
Swedenborg, nhà bác học và toán học trứ danh của thế kỷ 18, đã có một năng
khiếu thần thông phi thường.
Người ta được biết rõ một chuyện
về năng khiếu thần thông của ông, chuyện này đã được nhiều nhà tai mắt chứng
kiến trong số đó có nhà triết học Emmanuel Kant.
Một buổi chiều vào khoảng 6 giờ,
ông Swedenborg đang ngồi dùng cơm với vài người bạn ở thành phố Gothenburg,
bỗng nhiên ông giựt mình và nói rằng một cơn hỏa hoạn lớn đang xảy ra ở
Stockholm là chỗ ông ở, cách đó độ 500 cây số. Sau đó một lát, ông tuyên bố
rằng ngọn lửa đã thiêu hủy ngôi nhà của một người láng giềng và hăm dọa cháy
lan đến ngôi nhà của ông. Đến 8 giờ, cũng chiều hôm đó, ông cho biết, với một
giọng nói đã trấn tĩnh, rằng ngọn lửa đã được dập tắt ở khoảng cách nhà ông độ
vài ba gian nhà khác. Hai ngày sau, những lời của ông Swedenborg đã được xác
nhận bằng những lời tường thuật về cuộc hỏa hoạn, mà sự bộc phát nhằm đúng ngay
vào lúc ông Swedenborg giựt mình và có cảm giác đầu tiên về cơn tai biến này.
Đây không phải là trường hợp duy nhất: Tiểu sử của nhiều nhân vật tên tuổi cũng
đã ghi chép hàng trăm trường hợp tương tự, trong số đó có vài người như Mark Twain,
Abraham Lincoln, St. Saens, ... Trong vài trường hợp, chính những người bà con
thân quyến của họ đã có lúc nhìn thấy thình lình những hình ảnh lạ lùng về
những sự việc xảy ra ở cách rất xa, hoặc sẽ xảy ra trong nhiều tháng hay nhiều
năm về sau, với đầy đủ từng chi tiết.
Nói về trường hợp ông Swedenborg
thì năng khiếu thần nhãn của ông từ đó trở nên một thứ giác quan mạnh mẽ phi
thường và liên tục. Trong phần nhiều những trường hợp khác, năng khiếu đó hình
như chỉ biểu lộ trong một lúc nhất định khi đương sự tạm thời rơi vào một trạng
thái xuất thần.
Người Tây phương thường có khuynh
hướng đón nhận những sự việc kể trên với một thái độ hoài nghi và thậm chí với
ít nhiều cử chỉ khinh thường. Tuy nhiên, nay đã đến lúc mà người ta không thể
nhìn xem những hiện tượng đó một cách khinh rẻ như thế được nữa. Đối với những
người có một tinh thần cởi mở, họ sẵn sàng tìm hiểu những hiện tượng lạ lùng,
đối với những người thông hiểu các trào lưu khoa học và sự nhu cầu của thế hệ
thì bất cứ sự việc gì có liên hệ đến những khả năng lạ lùng huyền bí của con
người đều có tánh cách lý thú và có một tầm quan trọng vào bậc nhất.
Trong số những nhà thông thái có
tầm kiến thức rộng rãi, cho rằng những hiện tượng thần bí, siêu nhiên, đáng
được nghiên cứu bằng phương pháp khoa học, và đã ra công sưu tầm về những hiện
tượng đó, có bác sĩ J. B. Rhine, giáo sư trường Đại Học Duke. Từ năm 1930, bác
sĩ Rhine và những người cộng sự với ông đã nghiên cứu ráo riết về những hiện
tượng thần giao cách cảm và năng khiếu Thần Nhãn trong con người.
Do những cuộc thí nghiệm được
kiểm soát chặt chẽ và một phương pháp đặc biệt, bác sĩ Rhine đã khám phá được
một điều là trong phòng thí nghiệm, có nhiều người đã biểu lộ những khả năng
cảm xúc bằng giác quan siêu đẳng, nói tóm tắt là biểu lộ những năng khiếu thần
thông. Người ta có thể nhìn thấy những chi tiết về phương pháp thí nghiệm và
những kết quả sưu tầm của bác sĩ Rhine trong quyển sách nhan đề "Tầm Hoạt
Động Của Trí Não" do chính ông xuất bản năm 1947.
Những nhà
sưu tầm khác như Warcollier ở Pháp, Kotik ở Nga và Tichner ở Đức, với những
phương pháp thí nghiệm tương tự, cũng đã đi đến những kết luận giống như của
bác sĩ J. B. Rhine. Những bằng chứng khoa học hiển nhiên đã giải tán mọi điều
nghi ngờ về sự thật của những hiện tượng thần giao cách cảm và năng khiều Thần
Nhãn trên địa hạt tâm linh con người. Tuy thế, cho đến nay khoa học chỉ mới
chứng minh rằng hiện tượng Thần Nhãn là một điều có thật. Người ta vẫn chưa tìm
cách áp dụng năng khiếu đó trên địa hạt thực tế. Nếu con người có được cái năng
khiếu thần thông đó, nó giúp cho y nhìn thấy được những gì xảy ra trong không
gian mà không cần sử dụng đến cặp mắt phàm, chẳng khác nào y như là một cái máy
vô tuyến thu ảnh (Television) thì chừng đó y đã có được một khí cụ mới và quan
trọng để thu hoạch những điều hiểu biết về con người và về vũ trụ.
Trải
qua nhiều thế kỷ, con người đã làm được nhiều công trình lớn lao. Sự khôn ngoan
khéo léo của y đã giúp y chinh phục không gian và làm chủ được cõi giới vật chất.
Nhưng mặc dầu y đã có được sự khôn ngoan khéo léo đó, y vẫn là một vật yếu đuối
và bất toàn. Mặc dầu những sự chinh phục trên địa hạt vật chất, y vẫn còn bất lực
và bỡ ngỡ, lạc loài. Mặc dầu y đã thu hoạch được những kết quả thành tựu mỹ mãn
trên các lĩnh vực nghệ thuật, văn hóa và khoa học, y vẫn chưa tìm ra ý nghĩa và
mục đích của sự đau khổ mà con người phải chịu từ khi sinh ra cho đến khi y từ
giã cõi đời. Trong thời gian qua, con người đã tìm ra những bí mật của hột
nguyên tử. Có lẽ nhờ những sự khám phá gần đây về những khả năng cảm xúc bằng
giác quan siêu đẳng của con người và những mối liên quan lạ kỳ giữa ý thức và
tiềm thức, y sẽ có thể tiến sâu vào lĩnh vực tâm linh huyền bí của chính mình.
Sau nhiều thế kỷ dọ dẫm tìm tòi, có lẽ sau cùng người ta sẽ tìm ra những câu giải
đáp thỏa đáng cho những điều bí hiểm quan trọng của đời người, những lý do vì
sao y sinh ra ở cõi thế gian và mục đích cùng ý nghĩa của sự đau khổ.
CHƯƠNG 2
ÔNG EDGAR CAYCE DÙNG
THẦN NHÃN ĐỂ KHÁM BỆNH
Thật là một điều lý
thú mà biết rằng năng khiếu Thần Nhãn có thể giúp cho ta làm được những điều
phi thường. Nhưng càng lý thú hơn nữa khi ta được biết rằng trong thời đại này
có một người đã dùng năng khiếu Thần Nhãn một cách hữu ích trên địa hạt sưu tầm
cũng như trên phương diện thực tế.
Người ấy là ông Edgar Cayce. Người ta gọi ông Cayce
trong những năm cuối cùng của đời ông, là "Con người phi thường ở Virginia
Beach". Đó là một danh hiệu phỉnh lừa, vì tùy rằng có hằng trăm người đã
được ông chữa khỏi bịnh trong những điều kiện thật là lạ lùng, nhưng ông không
phải là một người làm "Phép lạ" hiểu theo ý nghĩa thông thường của chữ
này. Không hề có chuyện đặt bàn tay truyền điện, hay làm cho bịnh nhân quăng nạng
gỗ sau khi đã sờ nhẹ vào manh áo của y. Những sự "Nhiệm màu" của ông
Cayce chỉ là sự khám đúng căn bịnh, mà thường là trong khi bịnh nhân ở cách xa
ông đến hằng ngàn cây số! Ngoài ra, năng khiếu Thần Nhãn của ông chỉ hoàn toàn
khai mở trong giấc ngủ thôi miên, đó là một điều đáng được sự chú ý của những
nhà chữa bịnh theo khoa Tâm lý, thường dùng giấc ngủ thôi miên để chữa bịnh hoặc
làm phương tiện sưu tầm về cõi tiềm thức của con người.
Một trong những ví dụ đáng kể nhất về cách xử dụng
Thần Nhãn của ông Cayce là trong trường hợp sau đây: Một người con gái ở Selma,
thuộc tiểu bang Alabama Hoa Kỳ, thình lình bị mất trí và được đem vào một nhà
thương điên. Người anh cô ta kinh hoảng, bèn nhờ cậy ông Cayce giúp đỡ. Ông
Cayce bèn nằm trên giường, thở vài hơi dài và sâu, đoạn ông ngủ thiếp đi. Kế đó,
ông chịu sự dẫn dụ thôi miên của một người bảo ông nhìn vào thể xác của người
thiếu nữ và khám bịnh cho cô ấy. Sau một lúc im lặng, ông Cayce bắt đầu nói,
cũng như bất cứ mọi người nằm trong giấc thôi miên khi họ được lịnh truyền của
người dẫn dụ. Tuy nhiên, có điều khác hơn những người thường, là ông Cayce bắt
đầu diễn tả tình trạng thể chất của người bịnh, dường như cặp mắt ông có quang
xuyến X. Ông cho biết rằng người con gái ấy có một cái răng cấm mọc ngược và cấn
lên một đường gân thông lên bộ óc. Ông bảo phải nhổ cái răng ấy để cho đường
gân kia được giải tỏa, khỏi động lên tới óc, và đem bịnh nhân trở lại trạng
thái bình thường. Theo sự chỉ dẫn của ông Cayce, người ta mới xem trong miệng
người con gái thì thấy có một cái răng cấm mọc ngược. Sau khi được đem đến cho
một vị nha sĩ nhổ răng thì người con gái liền hết bịnh điên.
Một thí dụ khác rất lạ lùng, là một người thiếu phụ ở
tỉnh Kentucky bên Hoa Kỳ sinh ra một đứa con thiếu tháng. Đứa trẻ ấy ốm đau èo
uột luôn. Khi được bốn tháng, nó bị chứng kinh phong giựt rất nặng đến nỗi ba
bác sĩ săn sóc cho nó (trong đó có người cha của đứa trẻ) đều lo ngại rằng nó sẽ
không qua khỏi ngày hôm ấy. Người mẹ đứa trẻ đã tuyệt vọng, bèn nhờ ông Cayce
khám bịnh cho nó. Trong giấc thôi miên, ông Cayce bảo đem cho nó uống một liều
thuốc belladone và kèm theo sau đó, cho uống một liều thuốc trừ độc. Những vị
bác sĩ khác đều phản đối cách chữa bịnh này, vì belladone là một thứ thuốc độc,
nhưng bà mẹ đứa trẻ không nghe và nhất định tự mình đưa thuốc ấy cho con mình uống.
Ngay tức khắc, chứng kinh phong dứt hẳn. Sau khi cho đứa trẻ uống thêm một liều
thuốc trừ độc, đứa trẻ duỗi thẳng tay chân và ngủ một giấc ngon lành. Nó đã được
cứu sống và đã khỏi bịnh.
Những thí dụ trên đây, cùng với hàng trăm thí dụ
khác, không phải là những trường hợp chữa khỏi bịnh bằng "đức tin".
Những trường hợp mà người bịnh được chữa khỏi cấp thời như những trường hợp kể
trên chỉ là một số ít. Trong tất cả những trường hợp khác thì người bịnh được
điều trị một cách cụ thể, có khi lâu dài, và cách điều trị gồm có: Thuốc men,
giải phẫu, kiêng cữ món ăn, dùng sinh tố, chữa bằng điện, thoa bóp hay tự kỷ ám
thị ...
Những trường hợp chữa bịnh bằng Thần Nhãn của ông
Cayce đều được ghi chép trong những hồ sơ và được giữ gìn cẩn thận. Tất cả có đến
ba chục ngàn hồ sơ được cất giữ ở Virginia Beach, và sẵn sàng được dùng làm tài
liệu cho những ai muốn khảo cứu sưu tầm. Những hồ sơ đó gồm có những tờ biên bản
các cuộc khám bịnh bằng Thần Nhãn, có kê khai ngày tháng rõ ràng; những thơ thỉnh
cầu của bịnh nhân ở xa hoặc của thân quyến người bịnh; những bức thơ bày tỏ sự
biết ơn của những bịnh nhân được chữa khỏi ở khắp nơi trên thế giới; những giấy
chứng minh của các bác sĩ; và những bản tốc ký chép lại những lời của ông Cayce
thốt ra trong giấc ngủ thôi miên. Những tập hồ sơ này gồm thành một kho văn kiện
và tài liệu vĩ đại để chứng minh sự thật về hiện tượng Thần Nhãn
(Clairvoyance).
Ông Cayce sinh năm 1877 tại Hopskinville, tiểu bang
Kentucky, Hoa Kỳ. Ông sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo và thất học.
Ông theo học trường làng đến bực tiểu học, và mặc dầu trong thuở thiếu thời,
ông đã tỏ ý muốn trở nên một giáo sĩ, nhưng hoàn cảnh không cho phép ông tiếp tục
theo đuổi việc học vấn. Đời sống ở nông trại không thích hợp với ông; ông bèn
ra ở tỉnh thành, trước hết ông làm nhân viên phụ trách cửa hàng bán sách, sau
đó ông làm nhân viên một hãng bảo hiểm.
Năm ông 21 tuổi, một việc xảy ra bất ngờ làm thay đổi
trọn cuộc đời ông: Ông bị tắt tiếng nói vì một chứng bệnh yết hầu. Mọi sự chạy
chữa đều vô hiệu quả, và không một vị bác sĩ nào có thể chữa cho ông khỏi bịnh.
Không thể tiếp tục hành nghề nhân viên bảo hiểm, ông bèn trở về nhà cha mẹ ông.
Ông ở đó gần một năm, không hoạt động gì cả và chứng bịnh của ông dường như
không thể chạy chữa. Sau cùng, ông quyết định theo học nghề chụp ảnh, vì nghề
này không bắt buộc phải dùng đến giọng nói. Trong khi ông đang tập sự nghề chụp
ảnh, một nhà thôi miên đạo diễn tên là Hart, đi ngang qua Hopskinville và biểu
diễn tài nghệ tại nhà hí viện thành phố. Nhà thôi miên Hart khi nghe nói ông
Cayce bị chứng bịnh tắt tiếng, mới đề nghị chữa bịnh cho ông bằng khoa thôi
miên. Ông Cayce liền vui vẻ nhận lời. Trong giấc thôi miên, ông Cayce tuân theo
mệnh lệnh của ông Hart và nói chuyện như thường, nhưng trái lại, khi ông thức tỉnh
thì ông lại bị tắt tiếng như trước. Trong những giấc thôi miên kế đó, nhà thôi
miên bèn dẫn dụ cho ông nghe rằng: Sau khi thức tỉnh, ông sẽ có thể nói chuyện
được như bình thường. Phương pháp này gọi là "Ám thị thôi miên”, tuy rằng rất hiệu nghiệm và đã từng giúp đỡ được
nhiều người thắng được một vài thói quen như tật hút thuốc quá độ chẳng hạn, lại
không có kết quả đối với chứng bịnh của ông Cayce.
Ông Hart, vì phải di chuyển qua tỉnh khác theo
chương trình đã sắp đặt, không thể tiếp tục những cuộc thí nghiệm của ông nữa,
nhưng có một người tên là Layne ở cùng một địa phương, đã theo dõi cuộc chữa bịnh
cho ông Cayce một cách thích thú. Ông Layne mới đề nghị với ông Cayce để cho
ông ta thử điều trị cuống họng của ông. Ông Cayce vì muốn được khỏi bịnh bằng bất
cứ phương pháp điều trị nào, liền chấp nhận.
Ông Layne mới nảy ra một sáng kiến mới, là dẫn dụ
cho ông Cayce trong giấc thôi miên, hãy tự diễn tả căn bịnh của mình. Thật lạ
thay, ông Cayce tuân theo lời dẫn dụ đó và làm đúng y theo lời. Bằng một giọng
nói bình thường, trong khi ông chịu sự dẫn dụ thôi miên của ông Layne, ông
Cayce mới bắt đầu diễn tả trạng thái của những sợi dây thanh âm (cordes
vocales) trong cuống họng ông. Ông nói: "A! Chúng ta có thể nhìn thấy cái
thể xác này! Vào lúc bình thường, nó không thể nói được vì những thớ thịt phần
dưới cuống họng bị liệt bại hết một phần, so một sự căng thẳng thần kinh gây
nên. Chứng bịnh này nguyên nhân là do một trạng thái tâm lý gây ra và ảnh hưởng
đến phần thể chất. Muốn chữa hết bịnh, phải dùng các dẫn dụ để làm vận chuyển sự
lưu thông máu huyết ở bộ phận bị đau, trong khi người bịnh còn nằm trong trạng
thái vô ý thức của giấc thôi miên."
Ông Layne liền dẫn dụ cho ông Cayce nghe rằng sự lưu
thông máu huyết của ông sẽ tăng gia một cách dồi dào ở chỗ cuống họng bị đau và
bịnh trạng của ông sẽ thuyên giảm. Lần lần, phần trên của bộ ngực và cuống họng
của ông Cayce thay đổi màu sắc, và chuyển từ hồng nhạt sang màu đỏ thắm. Sau đó
20 phút, vẫn trong giấc ngủ thôi miên, ông Cayce bèn ho lên mấy tiếng để lấy giọng
và nói: "Tốt lắm, căn bịnh đã dứt. Ông hãy dẫn dụ rằng sự lưu thông máu
huyết sẽ trở lại bình thường và thể xác này hãy thức tỉnh." Ông Layne liền
làm y theo lời. Ông Cayce bèn thức tỉnh và nói chuyện như thường lần đầu tiên từ
trên một năm nay. Trong những tháng sau đó, thỉnh thoảng căn bịnh ông tái phát
trở lại một đôi lần. Mỗi lần như thế, ông Layne lại dẫn dụ bằng thôi miên cho
máu huyết lưu thông nơi cuống họng, và chứng bịnh lại dứt.
Câu chuyện của ông Cayce có lẽ đã chấm dứt với bấy
nhiêu đó, nếu ông Layne không nhìn thấy những triển vọng sâu xa của trường hợp
đặc biệt này, và tìm cách khai thác trên địa hạt thực tế. Lịch sử của khoa thôi
miên là điều quen thuộc đối với ông và ông đã từng biết những trường hợp tương
tự đặt dưới sự điều trị của ông De Puysegur ở Pháp, ông này là vị kế nghiệp cho
bác sĩ Mesmer, người đã khám phá ra khoa nhân điện học. Ông Layne nghĩ rằng nếu
ông Cayce có thể nhìn thấy thể xác của những người khác thì có thể khám bịnh được
cho họ. Ông Layne bèn thí nghiệm điều này với chính mình ông, vì trong thời
gian gần đây ông bị chứng đau bao tử. Cuộc thí nghiệm đã thành công mỹ mãn.
Trong giấc thôi miên, ông Cayce diễn tả trạng thái bên trong xác thể của ông
Layne và đề nghị một vài phép điều trị. Ông Layne lấy làm vui mừng vô hạn: Sự
khám nghiệm của ông Cayce hoàn toàn đúng theo những triệu chứng mà chính ông đã
nhận thấy và cũng đúng theo sự khám nghiệm của nhiều vị bác sĩ khác.
Hơn nữa, cách điều trị của ông Cayce đưa ra gồm có một
phép ăn uống hạn chế, kiêng cữ, những thuốc men và những phép tập thể dục chưa
từng đem áp dụng cho trường hợp của ông từ trước. Ông Layne bèn áp dụng theo
cách điều trị ấy và trong vòng ba tuần, ông nhận thấy rằng bịnh trạng của ông
đã thuyêng giảm rất nhiều. Những sự kiện trên đây làm cho ông Cayce lưỡng lự
phân vân không ít. Nhưng ông Layne lấy làm vô cùng hứng khởi và quyết định thử
xem phép điều trị này có thể chữa khỏi bịnh cho những người khác hay không?
Hồi mới lên mười tuổi, ông Cayce bắt đầu đọc bộ
Thánh Kinh (Bible), và đọc đi đọc lại hàng năm từ đầu đến cuối bộ sách ấy. Ông
có ý nghĩ muốn trở nên một nhà chữa bịnh để cứu giúp các bệnh nhân đau khổ,
cũng như các vị môn đồ đấng Christ hồi xưa. Về sau, ông có tham vọng trở nên một
nhà truyền giáo như đã nói ở trên, nhưng hoàn cảnh của ông không cho phép. Và đến
bây giờ thình lình ông nhận thấy cơ hội làm thầy chữa bịnh cho thiên hạ tự
nhiên xuất hiện đến với ông. Nhưng ông còn băn khoăn lo ngại không dám nắm lấy
cơ hội ấy, vì ông sợ rằng nếu trong giấc ngủ thôi miên, ông lỡ nói một điều gì
có hại và nguy hiểm cho tánh mạng kẻ khác, thì sao? Nhưng ông Layne liền bảo đảm
rằng ông đừng sợ gì cả; chính ông Layne đã có hiểu biết khá nhiều về Y học để
có thể ngăn chận lại những phép điều trị nào xét ra có hại cho bịnh nhân. Ông
Cayce liền thăm dò lại bộ Thánh Kinh để tìm lấy một đường lối hành động. Sau
cùng, ông bằng lòng giúp đỡ cho những người bịnh nào muốn điều trị theo phương
pháp của ông, nhưng ông nói trước một cách dứt khoát rằng đó chỉ là những cuộc
thí nghiệm, và ông không đòi hỏi tiền thù lao chi cả.
Kế đó, ông Layne mới bắt đầu chép bằng tốc ký những
lời mà ông Cayce thốt ra trong giấc ngủ thôi miên và gọi đó là biên bản, hay
phúc trình những cuộc "Khán Bịnh Bằng Thần Nhãn." Điều lạ lùng nhất
trong những cuộc khán bịnh của ông Cayce, ngoài những giờ hành nghề nhiếp ảnh,
ông đã dùng những danh từ đúng đắn về khoa Sinh Lý Học và Cơ Thể Học, mặc dầu
trong lúc thức tỉnh, ông không hề biết một điều gì về ngành Y học và không hề đọc
các sách về Y khoa. Điều càng lạ lùng hơn nữa đối với ông Cayce, là những bịnh
nhân do ông điều trị đều được thuyên giảm rất nhiều. Trường hợp của ông Layne
không đủ làm cho ông chịu thuyết phục vì ông cho rằng có lẽ sự tưởng tượng đã
làm cho ông Layne tưởng rằng mình khỏi bịnh.Về phần ông Cayce, việc ông đã thu
hồi lại được giọng nói không thể cho là sự tưởng tượng, nhưng đó có thể chỉ là
một sự ngẫu nhiên tình cờ.
Những sự nghi ngờ nó vẫn luôn ám ảnh ông trong những
năm đầu khi ông mới bắt tay vào việc khán bịnh bằng Thần Nhãn, đã lần lần được hóa
giải trước sự kiện hiển nhiên là những bịnh nhân do ông điều trị đều được khỏi
bịnh, thậm chí đến cả những trường hợp được coi như là nan y và hết phương chạy
chữa.
Lần lần, quyền năng phi thường của ông Cayce đã được
đồn đãi khắp mọi nơi. Một ngày kia, ông được tin điện thoại của ông cựu Thanh
tra Giáo dục thành phố Hopskinville mời ông đến chữa cho cô con gái của ông mới
lên năm tuổi, và đau ốm đã ba năm nay. Em ấy bị chứng cảm cúm vào năm hai tuổi
và từ khi đó đến nay, em bị mất trí khôn. Những vị bác sĩ chuyên môn mà cha mẹ
em đã mời đến khám bịnh cho em đều thúc thủ vô sách, không làm sao cứu em khỏi
bịnh. Gần đây, em lại bị chứng phong giựt càng ngày càng dữ dội thêm, và một vị
bác sĩ chuyên môn đã tuyên bố rằng đó là một chứng bịnh thuộc về óc, không thể
chữa nổi. Cha mẹ em đã tuyệt vọng, và đem em trở về nhà để chờ ngày em trút
linh hồn. Khi đó, một người bạn nói chuyện với cha mẹ em về ông Cayce và quyền
năng nhiệm mầu của ông. Khi ông Cayce nghe nói về trường hợp của cô gái nhỏ
này, ông bằng lòng di chuyển đến nơi để khám bịnh cho em ấy.Vì tình hình tài
chánh của ông không được dồi dào lắm, nên ông phải nhận tiền lộ phí của gia
đình bệnh nhân cung cấp: đó là lần đầu tiên mà ông nhận một món tiền về công việc
chữa bịnh của ông để giúp đỡ kẻ khác. Ông bèn lên đường, tuy rằng với một sự
băn khoăn khó nghĩ trong lòng.
Khi cô gái nhỏ được đem đến trước mặt ông, ông càng
cảm thấy một cách thấm thía sự mỉa mai của vai trò của ông: Vì ông, con của một
gia đình nông dân tầm thường và không biết một chữa về y học, lại tự hào có thể
chạy chữa cho một đứa trẻ mà những nhà chuyên môn giỏi nhất trong xứ về ngành Y
khoa đã phải chịu bó tay không chữa nổi! Ông cảm thấy hơi run rẩy khi ông nằm
trên chiếc sofa trong phòng khách nhà ông Thanh tra, và ngủ mê thiếp đi. Tuy
nhiên, trong giấc ngủ thôi miên, ông không còn băn khoăn nghi ngại về ông nữa.
Ông Layne có mặt ở một bên để dẫn dụ cho ông, và chép bằng tốc ký những lời ông
Cayce thốt ra như thường lệ.
Với một sự bình tĩnh và tự tin mà ông vẫn thường biểu
lộ trong những cuộc khám bệnh trước đây, ông Cayce mới bắt đầu diễn tả bịnh trạng
của đứa trẻ. Ông cho biết rằng trước khi bị cảm cúm, em bé ấy đã bị té ngã từ
trong xe văng xuống đất, và vi trùng bịnh cúm đã đột nhập vào chỗ thương tích
do tai nạn gây ra; rằng điều này gây nên chứng phong giựt. Ông cho biết thêm rằng
một sự điều trị thích nghi bằng phép nắn xương sẽ có thể làm giảm bớt áp lực và
giúp cho em nhỏ được bình phục trở lại như thường.
Bà mẹ em bé xác nhận việc em bị ngã xe, nhưng vì
không thấy có thương tích, nên bà không hề nghĩ rằng việc ngã xe lại có ảnh hưởng
đến bịnh trạng của em bây giờ. Ông Layne bèn áp dụng cách điều trị cho em theo
lời dặn của ông Cayce và trong vòng ba tuần, em nhỏ đã hết chứng phong giựt.
Tình trạng trí khôn của em đã khá nhiều: Em nói được tên của con búp bê, món đồ
chơi thích nhất của em mà em vẫn chơi trước khi bị bịnh; sau đó em gọi tên của
cha mẹ em lần đầu tiên từ nhiều năm nay. Sau ba tháng, hai ông bà chủ nhà tuyên
bố rằng cô con gái nhỏ của ông bà đã hoàn toàn bình phục và đang cố gắng vớt
vát lại thời gian đã mất trong những năm đen tối vừa qua.
Những sự việc xảy ra như trường hợp này đã đem đến
cho ông Cayce một đức tin rằng ông không lầm khi đem sử dụng khả năng lạ lùng của
ông để giúp đỡ thế gian. Tiếng tăm của ông càng ngày càng đồn xa. Báo giới đã
khám phá ra chỗ ông ở và đã phỏng vấn ông. Kể từ khi đó, hằng ngày ông đều nhận
được những cú điện thoại và những bức điện tín của những bệnh nhân tuyệt vọng
yêu cầu ông chữa bệnh cho họ. Chính nhờ đó mà ông nhận thấy rằng ông có thể
khám bệnh xuyên qua không gian, trong khi ông ở cách xa bệnh nhân đến hằng mấy
trăm dặm đường, miễn là trong giấc thôi miên, người ta nói cho ông biết tên tuổi
và địa chỉ rõ ràng của bệnh nhân.
Ông Cayce thường bắt đầu các cuộc khám nghiệm bịnh
nhân ở xa bằng vài lời bình phẩm về thời tiết và hoàn cảnh địa phương chỗ bịnh
nhân ở, với một giọng nói thì thầm đại khái như:
"Ở đây, sáng nay gió thổi mạnh quá!"
"Đây là Winthertur ở Thụy Sĩ. À! Những bộ áo
pyjama này đẹp quá!" "Ừ! Bà mẹ đang cầu nguyện ở phòng bên!" ...
Những sự tả cảnh đó về sau được xác nhận là đúng, lại
càng giúp một bằng chứng xác thực về năng khiếu Thần Nhãn của ôn Cayce. Dầu rằng
bịnh nhân ở cách xa, hay ở gần một bên ông trong một gian phòng, thì ông cũng
dùng một phương pháp giống nhau không có gì thay đổi. Ông chỉ cần cởi giày, lên
nằm trên divan hay trên giường một cách hoàn toàn thoải mái và nghỉ ngơi. Ông
nhận thấy rằng ông cần phải nằm quay đầu về hướng bắc và chân về hướng nam.
Ngoài ra một chỗ nằm và một cái gối để gối đầu, ông không cần dùng một món gì
khác.
Những cuộc khán nghiệm có thể diễn ra ban ngày cũng
như ban đêm, và bóng tối hay sáng đều không có ảnh hưởng gì khác nhau. Vài phút
sau khi nằm yên chỗ, ông liền ngủ thiếp đi. Khi đó, ông Layne, hay là vợ ông
Cayce, hay bất cứ một người nào khác mà ông tin cậy và giao phó trách nhiệm
này, mới đưa ra cho ông những lời dẫn dụ thích nghi. Câu dẫn dụ thông thường
là: "Bây giờ, ông sẽ thấy trước mặt ông (tên họ người bệnh), ở tại (địa chỉ:
Tên đường thành phố, xứ). Ông sẽ khám nghiệm thân thể người ấy một cách chăm
chú và cẩn thận, và ông sẽ nói cho biết bịnh trạng cùng nguyên nhân của chứng bịnh
là như thế nào. Ông cũng sẽ nói cách điều trị ra sao để chữa bịnh cho cái thể
xác người ấy được thuyên giảm. Và ông sẽ đáp lại những câu hỏi của tôi đưa
ra."
Vài phút sau, ông Cayce bắt đầu nói, và ông Layne hoặc
cô thư ký Gladys Davis chép bằng tốc ký những lời nói của ông Cayce. Sau đó, bản
chép tốc ký được đem đánh máy lại rõ ràng. Trong phần nhiều trường hợp, một bổn
sao được đưa cho người bịnh hoặc thân nhân của y, hoặc người đỡ đầu hay vị bác
sĩ của đương sự, còn một bổn sao bằng giấy màu vàng thì được giữ trong hồ sơ của
bệnh nhân.
Lời đồn đãi truyền khẩu và những bài tường thuật
trên mặt báo chí về năng khiếu Thần Nhãn của ông Cayce không bao lâu đã hấp dẫn
sự chú ý của những tay con buôn có óc trục lợi. Một nhà buôn lớn về ngành bông
vải đề nghị trả cho ông Cayce mỗi ngày một trăm dollars liên tiếp trong hai tuần
để nhờ ông "Xem" giùm giá thị trường bông vải hằng ngày. Mặc dầu lúc ấy
ông đang cần dùng tiền, nhưng ông bèn từ chối. Có những người khác muốn nhờ ông
chỉ giùm những chỗ chôn giấu kho tàng, hoặc chỉ con ngựa nào về nhứt để đánh
trúng giải cá ngựa trong trường đua. Có nhiều lần, ông Cayce đã chịu nghe theo
lời thiên hạ thỉnh cầu và làm thử những chuyện kể trên để rút kinh nghiệm và
cũng để xem kết quả ra sao. Nhiều lần ông đã thành công và nói đúng kết quả của
những cuộc cá ngựa; nhưng nhiều lần ông cũng đã nói sai! Và những lần như thế,
sau khi thức tỉnh ông cảm thấy mệt mỏi, bực dọc và bất mãn về mình! Có một lần,
người ta thuyết phục được ông hãy thử thời vận và dùng Thần Nhãn để khám phá
các mỏ dầu hỏa ở tiểu ban Texas, nhưng ông không thu được kết quả gì đáng kể và
đã hoàn toàn thất bại!
Sau cùng ông nhận thấy rằng ông chỉ có thể sử dụng
năng khiếu thần thông của mình một cách hữu hiệu và chắc chắn vào mục đích chữa
bịnh cho nhân loại, vài chỉ vì mục đích duy nhất đó mà thôi, chớ không bao giờ
nên dùng Thần Nhãn để giúp cho ai, hay cho chính mình trong việc kiếm tiền và
sinh lợi! Chí đến những sự quảng cáo ồ ạt để cầu danh, ông đều dửng dưng không
quan tâm đến.
Năm 1922, ông Giám Đốc tờ báo Denver Post nghe nói đến
ông Cayce và mời ông đến Denver. Sau khi dự kiến một buổi khám bịnh có kết quả
hiển nhiên, ông ta liền đề nghị với ông Cayce một việc sau đây: Ông ta sẽ trả
cho ông Cayce mỗi ngày một ngàn dollars, và tự đảm nhiệm lấy công việc tổ chức
những cuộc trình diễn lưu động trong xứ, nếu ông Cayce bằng lòng đổi tên họ và
khoác lấy một cái tên Ấn Độ, ăn mặc và bịt khăn theo lối Đông Phương, và khám bịnh
bằng giấc thôi miên sau một tấm màn che khuất để tránh những cặp mắt tò mò.
Nhưng ông Cayce quyết liệt từ chối.
Ông David Kahn, Giám Đốc công ty Vô Tuyến Truyền
Hình ở Brunswich, và là bạn cũ của ông Cayce, trong những cuộc nói chuyện riêng
tư, đã quảng cáo về việc làm của ông Cayce trong các giới bạn bè và các giới
kinh doanh thương mãi; nhưng khi ông đề nghị mở một chương trình quảng cáo đại
quy mô về công việc của ông Cayce trên đài vô tuyến truyền hình, thì ông Cayce
liền từ chối một cách quyết liệt khi ai làm bất cứ một sự quảng cáo nào về sự
khám bịnh hay về những cuộc diễn thuyết công cộng của ông.
Trong các cuộc đàm thoại với những người không được
biết ông nhiều, ông không bao giờ nói về năng khiếu đặc biệt của mình, nếu người
ta không hỏi ông về vấn đế đó. Có nhiều người ở cùng một tỉnh nhưng không hề biết
gì về ông, ngoài việc ông làm nghề nhiếp ảnh. Ông sống với một niềm tin tưởng
chắc chắn rằng ông chỉ là một khí cụ để giúp đỡ và đem lại sức khỏe cho những kể
ốm đau khổ sở, và ông không bao giờ nên làm cho thiên hạ chú ý đến mình.
Trong những năm đầu, ông Cayce vẫn tiếp tục hành nghề
nhiếp ảnh, và luôn luôn từ chối không nhận tiền thù lao về những cuộc khám bịnh
của ông. Về sau, khi số người bịnh đến nhờ ông chạy chữa càng ngày càng đông
làm cho ông không thể nào tiếp tục hành nghề nhiếp ảnh được nữa, ông mới có lý
do nhận tiền thù lao vì ông còn phải đùm bọc và nuôi dưỡng gia đình. Tuy thế, đối
với những người nghèo không đủ sức trả tiền, ông vẫn khám bịnh dùm không lấy tiền.
Không bao giờ ông Cayce đòi hỏi hoặc bắt buộc bịnh nhân phải trả tiền thù lao.
Những bổn sao các thư từ của ông hiện còn được cất
giữ trong các tập hồ sơ ở Virginia Beach, nơi ông đến trú ngụ từ năm 1927, là
nhữg bằng chứng hùng biện cho lòng hy sinh, vô kỷ của ông. Mặc dầu trong những
bức văn thư ấy có rất nhiều sự thiếu sót về văn phạm, cách chấm câu và cách
hành văn, nhưng nó biểu lộ một cách sâu xa lòng mong muốn giúp đỡ và làm giảm bớt
những nỗi đau khổ của nhân loại. Trong những năm đầu tiên đó, ông Cayce luôn
luôn bị dày vò bởi sự hoài nghi. Có đôi khi, trong những cuộc khán binh, ông
Cayce vẫn lặng thinh không nói gì trong giấc ngủ thôi miên. Có lẽ trong những
lúc đó, năng khiếu Thần Nhãn của ông bị ảnh hưởng bởi tình trạng sức khỏe hoặc
trạng thái bất an của tâm hồn. Mặc dầu lúc thường, ông là một người dịu dàng và
hiền lành, nhưng ông có những lúc nóng giận thình lình; và ông thường có sự lo
âu về tiền bạc.
Một tâm trạng như thế lẽ tất nhiên làm tê liệt mất
năng khiếu của ông. Trong những trường hợp khám bịnh mà không có kết quả, người
ta phải đình lại một lúc khác để đợi cho tình trạng sức khỏe và tâm lý của ông
được phục hồi trở lại, khi đó cuộc khám bịnh sẽ đem lại kế quả mong muốn.
Nhưng ông Cayce cũng bị xúc động một cách sâu xa nếu
có bịnh nhân nào tỏ vẻ bất mãn vì cuộc khám bịnh không nói đúng theo bịnh trạng
của họ, hoặc sự điều trị không có kết quả như mong muốn. Trong những trường hợp
đó, ông Cayce xin lỗi một cách khiêm tốn trong những bức thơ dài, và giải thích
rằng ông không hề tự hào là Thần Y có thể chữa khỏi bá bịnh; rằng có một phần
chi tiết mà ông không được biết rõ, điều này làm cho những cuộc khán bịnh của
ông trở nên kém hiệu lực và bất toàn; và đôi khi ông không nhìn thấy rõ ràng mọi
sự, cũng như một cái máy thu thanh vô tuyến, nghe khi mờ khi tỏ, chứ không phải
lúc nào cũng chạy một cách đều đặn, hoàn toàn. Và trong thơ, ông kết luận:
"Mục đích duy nhất của chúng tôi là giúp đỡ ông." Và ông gửi kèm theo
trong thơ một ngân phiếu hoàn nguyên số tiền mà ông đã nhận được lại cho vị
thân chủ.
Thỉnh thoảng, sau nhiều tháng, chính những người
thân chủ đó trở lại cho ông hay rằng một cuộc khán bịnh riêng về sau đã xác nhận
những gì ông đã nói từ lúc đầu, mà họ đã nghi ngờ là không đúng như bịnh trạng
của họ. Cũng có đôi khi ông Cayce nhận thấy rằng những bịnh nhân đã than phiền
về sự chữa bịnh không lành, đã tỏ ra cẩu thả không chịu áp dụng đúng theo cách
điều trị của ông đưa ra, chẳng hạn như họ quên ăn uống kiên cữ, hoặc không chịu
uống thuốc, hoặc xao lãng về phần kỷ luật tinh thần mà ông đã buộc họ phải noi
theo. Dầu sao ông cũng biết rằng những cuộc khám bịnh của ông không phải là bá
phát bá trúng. Nhưng với thời gian qua, những cuộc khám bịnh của ông càng ngày
càng trở nên rõ ràng và đúng đắn hơn trước, vì kinh nghiệm đã giúp cho ông biết
cách sử dụng năng khiếu của ông một cách hữu hiệu hơn. Những sự thất bại hoặc
sai biệt xảy ra một đôi khi, đã được bù đắp bởi những sự chữa lành bịnh một
cách mầu nhiệm.
Một vị linh mục Thiên Chúa giáo người Gia Nã Đại đã
được chữa khỏi bịnh động kinh; một người trò trường tỉnh ở Dayton (Ohio) đã được
chữa khỏi bịnh đau khớp xương; ở New York, một viên nha y đã được chữa khỏi
trong hai tuần chứng bịnh nhức đầu kinh niên đã nhiều năm; một thiếu niên ở
Philadenlphia mắc chứng bịnh đau mắt có cườm, là một chứng bịnh được coi như là
nan y, đã được bình phục khi một vị bác sĩ chữa cho y theo lời chỉ thị của ông
Cayce.
Chính những trường hợp chữa khỏi bịnh kể trên đã xảy
ra rất nhiều lần, làm cho ông Cayce bình nhật vốn là một người khiêm tốn, do dự,
và cẩn thận rất mực, phải tin tưởng nơi cái năng khiếu của ông, mặc dầu thỉnh
thoảng vẫn có những sự khó khăn và một vài sự sai biệt nhỏ nhặt không đáng kể;
và ông có thể tin rằng đó là một cái thiên tư đặc biệt của trời phú cho.
Năm 1942, do các báo chí đua nhau nói về thân thế và
sự nghiệp của ông Cayce, tên tuổi của ông đã vang dội khắp nơi ở Hoa Kỳ. Kết quả
là hằng triệu thơ từ của người trong xứ ở khắp bốn phương đều được gởi đến nhờ
ông chữa bịnh, trong số đó có nhiều trường hợp rất đau thương và vô cùng khẩn cấp.
Ông Cayce không bao giờ từ chối việc chạy chữa cho một bịnh bệnh nhân nào và
không bao giờ ruồng bỏ một ai, đành phải định ngày khám bịnh cho từng người, và
có người ông phải hẹn trước đến mười tám tháng mới đến phiên khám bịnh cho y.
Thay vì chỉ khám bịnh hai hay ba lần trong mỗi ngày,
có khi ông đã khám bịnh đến tám lần, sớm mai bốn lần và bốn lần vào buổi chiều.
Làm việc trong giấc ngủ, có vẻ dường như là một công việc thoải mái dễ dàng,
nhưng sự thật, ông Cayce đã phung phí rất nhiều sinh lựcvà sự căng thẳng gây
nên bởi sự làm việc quá sức đó đã ảnh hưởng đến sức khỏe của ông; ông từ trần
vào ngày ba tháng giêng năm 1945, hưởng thọ 67 tuổi.
Cuộc đời của ông Edgar Cayce đã chấm dứt, nhưng tiếng
tăm của ông không bao giờ mất. Nếu một người trở nên bất tử và lưu danh thiên cổ
do những công trình phụng sự nhân loại thì người ta có thể nói rằng ông Cayce
đã trở nên bất tử với thời gian vậy.
CHƯƠNG 3
GIẢI ĐÁP CHO NHỮNG VẤN
ĐỀ BÍ HIỂM CỦA ĐỜI NGƯỜI
Trong khoảng hai
mươi năm làm việc chữa bịnh để cứu độ thế gian, ông Cayce đã cứu chữa cho hằng
mấy muôn nghìn bịnh nhân, và điều này càng xác nhận sự thật về năng khiếu Thần
Nhãn của ông. Với năng khiếu thần thông này, ông Cayce nhìn thấu suốt tận trong
ngũ tạng lục phủ của người bịnh, và những bộ phận ẩn giấu trong cơ thể con người,
mà trong trường hợp thông thường người ta không nhìn thấy được. Trong nhiều năm
sau, người ta mới bắt đầu nghĩ rằng nếu Thần Nhãn có thể soi thấu vào cơ thể
con người, thì chắc nó cũng có thể chuyển hướng ra bên ngoài vũ trụ càn khôn để
nhìn thấy những mối liên quan giữa con người và vũ trụ, và tìm sự giải đáp cho
những vấn đề bí hiểm của đời người. Việc đó đã xảy ra trong trường hợp sau đây:
Ông Arthur Lammers, chủ nhân một nhà in lớn ở
Dayton, tiểu bang Ohio, có nghe một người cộng sự với ông nói chuyện về ông
Cayce. Ông lấy làm thích thú và tò mò đến nỗi ông bèn lên đường đi đến tận nơi
để quan sát công việc của ông Cayce ở Selma, tiểu bang Alabama, là nơi ông
Cayce đang trú ngụ. Sau khi đã quan sát những cuộc khán bịnh của ông Cayce
trong nhiều ngày liên tiếp, ông Lammers mới nhìn nhận sự thật về năng khiếu Thần
Nhãn của ông này. Ông Lammers là một người thông minh và có kiến thức rộng. Ông
bèn nghĩ rằng nếu một người có nhãn quang nhìn thấy những sự vật ẩn dấu đối với
cặp mắt phàm, thì người ấy chắc có thể làm sáng tỏ những vấn đề rộng lớn hơn về
vũ trụ và nhân sinh, chứ không phải chỉ nhìn thấy có sự hoạt động của lá gan
hay bộ máy tiêu hóa của người bịnh mà thôi đâu. Thí dụ như: Trong tất cả mọi
nghành triết học và tôn giáo, thì ngành nào gần nhất với Chân Lý? Mục đích của
đời người là gì? Thuyết cho rằng linh hồn con người vốn bất diệt có đúng hay
không? Nếu là đúng, sau khi chết, con người sẽ đi về đâu? Thần Nhãn của ông
Cayce có thể đem đến sự giải đáp cho những vấn đề ấy chăng?
Ông Cayce không hề biết một chút gì về những vấn đề ấy.
Những vấn đề trừu tượng về linh hồn và mục đích của cuộc đời,... Không hề
thoáng qua trong ý của ông. Ông chỉ chấp nhận một cách âm thầm những giáo lý mà
người ra giảng cho ông ở Nhà Thờ; mọi sự thảo luận hoặc so sánh những giáo lý
đó với triết học, khoa học và các tôn giáo khác đều là hoàn toàn xa lạ đối với
ông.
Sở dĩ ông đã chịu sự dẫn dụ trong những giấc ngủ
thôi miên là vì do lòng mong muốn giúp đỡ những kẻ bịnh tật đau khổ. Ông
Lammers là người đầu tiên đã nghĩ đến việc dùng Thần Nhãn vào những mục đích
khác hơn là chữa bịnh cho nhân loại, và điều này càng làm tăng gia lòng hứng khởi
của ông Cayce. Trong những giấc thôi miên, ngoại trừ một vài trường hợp ngoại lệ
rất hiếm, ông đã luôn luôn trả lời và giải đáp đúng những câu hỏi nêu ra. Vậy
thì không có lý do gì mà ông không thể giải đáp luôn cả những câu hỏi của ông
Lammers về các vấn đề vũ trụ nhân sinh khác hơn là vấn đề chữa bịnh.
Ông Lammers vì bận công việc kinh doanh không thể
kéo dài thời gian ở Selma, nên ông yêu cầu ông Cayce hãy về ở tại nhà ông ở
Dayton trong vài tuần. Ông Cayce bằng lòng với ý nghĩ rằng có lẽ đấng Thiên
Liêng muốn kêu gọi ông vào những công việc phụng sự khác nữa. Gần đây ông
Lammers có chú ý đến khoa Chiêm Tinh. Ông nghĩ rằng nếu khoa Chiêm Tinh đúng với
Chân lý, thì đó có thể là một nghành khoa học nối liền con người và vũ trụ mà
chúng ta có thể hiểu được rõ ràng. Ông bèn có ý định bắt đầu thí nghiệm Thần
Nhãn của ông Cayce về khoa này.
Một ngày nọ vào tháng 10, năm 1923, khi ông Cayce nằm
trong giấc ngủ thôi miên trong một gian phòng khách sạn Phillips ở Dayton, thì
người ta dẫn dụ cho ông hãy lấy một lá số Chiêm Tinh cho ông Lammers. Tuân theo
như thường lệ những lời dẫn dụ mà ông nhận được, ông Cayce bèn đưa ra những chi
tiết về lá số của ông Lammers bằng một vài câu vắn tắt. Và sau cùng, cũng một lối
hành văn ngắn ngủi, vắn tắt như thế ông nói một câu lạ lùng: "Thuở xưa y
là một tu sĩ." Câu nói tuy vắn tắt, nhưng đối với ông Lammers là người đã
từng đọc nhiều và đã từng quen thuộc với những lý thuyết quan trọng về nhân
sinh và định mệnh con người, câu nói ấy làm cho ông giựt mình chẳng khác nào
như bị điện giựt!
Phải chăng câu ấy có nghĩa là Thần Nhãn của ông
Cayce đã xác nhận như một sự thật hiển nhiên cái giả thuyết cổ xưa về vấn đề
Luân Hồi?
Thay vì làm thỏa mãn sự tò mò của ông Lammers, cuộc
khám nghiệm đó lại càng làm cho ông tọc mạch muốn biết thêm. Khi ông Cayce thức
tỉnh, ông thấy ông Lammers đang bàn luận sôi nổi với cô nữ bí thơ Linden
Shroyer về những lời nói của ông vừa rồi. Ông Lammers tuyên bố rằng nếu người
ta có thể chứng minh thuyết Luân Hồi là có thật, thì điều đó sẽ làm đảo lộn và
thay đổi tất cả những quan niệm đã có từ trước về triết học, tôn giáo, và tâm
lý học! Nếu ông Cayce cứ tiếp tục thí nghiệm của ông sẽ có thể tiết lộ cho ta
thấy rõ ràng luật Luân Hồi hành động bằng cách nào. Thí dụ như những mối liên hệ
giữa Luân Hồi và khoa Chiêm Tinh là như thế nào? Hai điều trên đây sẽ giải
thích bằng cách nào về linh hồn, về định mệnh, và về đời sống con người?
Ông Lammers bèn khẩn khoản yêu cầu, ông Cayce lấy
làm lưỡng lự phân vân, nhưng ông vẫn nhận lời tiếp tục những cuộc khám nghiệm.
Những câu hỏi của ông Lammers đưa ra đã được giải đáp một cách đứng đắn và với
đầy đủ chi tiết về những tiền kiếp của ông, cùng những vấn đề bí hiểm của đời
người mà ông bắt đầu khảo cứu tìm tòi. Theo những cuộc khám nghiệm đó, khoa
Chiêm Tinh có chứa đựng một phần nào sự thật. Thái Dương Hệ đưa đến cho linh hồn
đang tiến hóa một cơ hội học hỏi kinh nghiệm trong một chu kỳ nhất định. Con
người thâu thập kinh nghiệm ở cõi trần và trên những cõi vô hình khác, mà thuở
xưa người ta gọi bằng tên các cầu hành tinh làm trung tâm điểm cho những cõi ấy.
Tuy nhiên, khoa Chiêm Tinh mà người ta được biết và thực hành trong thời buổi
hiện tại, chỉ là gần đúng với sự thật mà thôi, chứ không phải là hoàn toàn
đúng, bởi vì có nhiều yếu tố ẩn tàng mà người đời chưa khám phá ra được một
cách đầy đủ trọn vẹn.
Những điều đó thật là lạ lùng đối với ông Cayce,
nhưng sự tò mò khiến ông cứ tiếp tục những cuộc khám nghiệm mà ông Lammers yêu
cầu. Họ tự nghĩ rằng những tài liệu mà họ muốn biết về những tiền kiếp sẽ được
đầy đủ hơn nếu họ đừng đòi hỏi lấy một "Lá số" và nếu ông Cayce nhận
một sự dẫn dụ thích nghi hơn. Bởi đó người ta mới đề nghị rằng trong giấc thôi
miên ông Cayce hãy đưa ra một lối dẫn dụ thích nghi. Và đây là lối dẫn dụ mà
ông Cayce đã đưa ra:
"Ông sẽ đứng trước mặt (tên của một người nào
đó), sinh ngày... tại... Ông sẽ nói cho biết thân thế và sự nghiệp của y và vai
trò của y trong vũ trụ là như thế nào, cùng những khuynh hướng và khả năng của
y trong kiếp hiện tại. Ông cũng cho biết những tiền kiếp của y ra sao với những
chi tiết về tên tuổi, xứ sở và thời kỳ nào y đã trải qua những tiền kiếp đó. Và
ông cũng cho biết luôn những nguyên nhân nào trong mỗi kiếp đã giúp đỡ hoặc làm
trì trệ sự tiến hóa của y trong kiếp này."
Từ đó những cuộc khám nghiệm đều nhằm rõ rệt vào những
tiền kiếp của đương sự. Những cuộc khám nghiệm này được gọi bằng danh từ soi kiếp,
để phân biệt với danh từ khám bịnh, chỉ nhằm khám nghiệm thể xác của bịnh nhân
vì mục đích chữa bịnh mà thôi. Đối với hai loại khám nghiệm kể trên, ông đều áp
dụng một phương pháp giống như nhau, trừ một chi tiết này, là mỗi khi ông Cayce
tuần tự soi kiếp cho nhiều người liên tiếp nhau thì ông bắt đầu cảm thấy chóng
mặt dữ dội. Chính ông cũng tự khám nghiệm lấy mình để tìm ra nguyên nhân sự
chóng mặt, thì ông được cho biết rằng cần phải đổi chiều hướng và quay đầu về
hướng bắc, chân về hướng nam trong những cuộc soi kiếp. Còn lý do vì sao cần phải
thay đổi chiều hướng như thế, thì không thấy giải thích, mà chỉ thấy nói rằng
đó là một vấn đề thuận dòng "Từ điển."
Những cuộc soi kiếp cho chính ông Cayce tiết lộ rằng
cách đây nhiều thế kỷ, ông đã từng làm một vị cao tăng ở các đền cổ ở bên Ai Cập
và có nhiều quyền phép thần thông, nhưng ông đã bị vấp ngã vì tánh kiêu căng và
thói ưa sắc dục. Trong một tiền kiếp ở Ba Tư, ông làm một y sĩ. Trong một kiếp
khác, có lần ông bị thương trong một trận chiến tranh trên sa mạc và bị bỏ sót
lại trên bãi cát, vì những người đồng bọn tưởng rằng ông đã chết. Nằm một mình,
không có nước uống, không lương thực và không một mái che ông đã chịu khổ rất
nhiều trong ba ngày và ba đêm đến nỗi ông đã làm một cố gắng rất lớn để xuất thần
ra khỏi thể xác của ông. Ông đã xuất thần được và chính nhờ việc ấy một phần
nào mà ngày nay ông có cái khả năng tự thoát ly ra khỏi những giới hạn của xác
thể. Tất cả những đức tánh và thói xấu của ông hiện thời đều được cân nhắc đứng
đắn và đều có thể truy nguyên ra ở những kinh nghiệm trong các kiếp trước. Cuộc
đời hiện tại là một sự thử thách cho linh hồn ông; ông đã có cơ hội phụng sự
nhân loại một cách vị tha, để cứu chuộc những tội lỗi trong quá khứ, là thói
kiêu căng, đắm mê vật chất và ưa thích điều sắc dục.
Ông Lammers nghĩ rằng những cuộc soi kiếp của ông
Cayce có một tầm quan trọng rất lớn, và bởi đó người ta cần thực hiện những cuộc
sưu tầm rộng lớn hơn về vấn đề này. Ông yêu cầu ông Cayce hãy đem gia quyến từ
Selma về ở Dayton và đề nghị chịu đài thọ mọi khoản tổn phí về sinh hoạt cho cả
gia đình ông, gồm cả bà Cayce, cùng hai người con trai và cô bí thư Gladys
Davis, cô này từ đó đã trở nên một người thân tín trong gia đình ông. Cả gia
đình đều bằng lòng chấp thuận. Khi họ được cho biết về những việc gì xảy ra,
thì họ đều có sự phản ứng giống như của ông Cayce: Lúc đầu họ còn ngạc nhiên và
nghi ngại, kế đó họ càng trở nên tò mò muốn biết sự thật và sau cùng họ đều lấy
làm thích thú cho đến say mê. Ông Cayce bèn soi kiếp cho mỗi người trong gia
đình ông. Trong mỗi trường hợp, tâm tính của mỗi người đều được diễn tả một
cách công khai và ông cho biết rằng mỗi thói hư tật xấu và mỗi đức tánh tốt đều
có nguyên nhân trong những tiền kiếp. Trong cuộc soi kiếp cho một người con
trai ông, ông nói: "Trong bốn tiền kiếp con là một nhà khảo cứu khoa học,
con đã trở nên có óc duy vật, ích kỷ và vụ lợi". Soi kiếp cho một người
con khác ông nói: "Con có tánh rất nóng nảy; thói xấu đó đã gây cho con
nhiều điều bất lợi trong những tiền kiếp ở Ai Cập và ở Anh Quốc. Kiếp này con
nên tập lấy sự tự chủ và tánh kiên nhẫn."
Những sự diễn tả tánh tình đó đều hoàn toàn đúng đắn
và chân thật, dầu cho đương sự là những người thân thích hay những người xa lạ
như ông Lammers, cô Linden Shroyer và những người bạn của ông Lammers, và điều
đó càng làm cho ông này thêm phần hứng khởi và tin tưởng.
Nhưng ông Cayce cảm thấy thắc mắc về những điều tiết
lộ đó, đến nỗi ông đâm ra nghi ngờ về ông và ông đã tự kiểm thảo lương tâm một
cách ráo riết. Sau cùng ông đi đến kết luận rằng ông có thể tin cậy nơi năng
khiếu Thần Nhãn của mình, bằng những cuộc khám bịnh và soi kiếp, ông đã làm một
công việc phụng sự chánh đáng và thiêng liêng chớ không phải là một điều tà dại.
Nhưng những điều tiết lộ của ông lại là những điều quá mới lạ và dường như...
"phản đạo", làm sao ông có thể tin chắc rằng đó là đúng với sự thật?
Sự băn khoăn của ông có thể hiểu được dễ dàng: Ông vốn
sinh trưởng trong một gia đình Cơ đốc giáo khắt khe và chính thống. Ông không hề
được biết một chút gì về những giáo lý của các tôn giáo lớn trên thế giới.
Trong lúc này, ông vẫn không biết gì về phần nhiều những điểm tương đồng giữa đạo
Cơ đốc với những tôn giáo khác, và ông chưa từng có dịp thưởng thức cái ánh
sáng đạo lý nó chiếu diệu trong những ngọn đèn khác hơn là ngọn đèn Cơ đốc của
mình. Ông hoàn toàn dốt về giáo lý căn bản của Ấn Giáo và Phật Giáo nói về vấn
đề Luân Hồi.
Hơn nữa, danh từ này đối với ông, không được hấp dẫn
cho lắm, vì người ta thường có một quan niệm sai lầm về thuyết Luân Hồi. Họ tưởng
rằng theo thuyết ấy thì những người tội lỗi sau khi chết, có thể đầu thai trở lại
làm kiếp thú, như làm thân trâu ngựa... Chính những cuộc soi kiếp đã giải tỏa
những sự nghi ngờ này cho ông Cayce. Trong những cuộc khám nghiệm các tiền kiếp,
ông Cayce được biết rằng Luân Hồi không phải là đầu thai trở lại làm thú vật;
và không phải là một điều mê tín dị đoan. Đó là một giáo lý có căn bản vững
vàng về phương diện tôn giáo và triết học. Có hằng triệu người trí thức ở Ấn Độ
và ở các xứ Phật giáo tin tưởng nơi thuyết ấy một cách sáng suốt thông minh, và
lấy đó làm nền tảng cho mọi cách xử thế trong đời sống hằng ngày của họ. Tất
nhiên là cũng có nhiều môn phái ở Ấn Độ và ở các nước Á Châu cũng chủ trương
thuyết Thoái Bộ Luân Hồi (metempsychose), tức là con người có thể tái sinh làm
kiếp thú, nhưng đó chỉ là một sự chủ trương sai lầm về thuyết Luân Hồi. Vài tôn
giáo cũng có những quan niệm lệch lạc về thuyết này, nhưng ta không nên để cho
những sự hiểu lầm và thiên lệch đó khép chặt trí óc của ta đối với một điều
Chân Lý căn bản và trọng đại.
Ông Lammers có thể bổ túc những điều được tiết lộ
trong những cuộc soi kiếp. Ông giải thích rằng Luân Hồi có nghĩa là Tiến Hóa: Sự
tiến hóa của linh hồn con người trải qua nhiều kiếp đầu thai liên tiếp ở cõi trần,
khi thì đầu thai làm đàn ông, khi thì làm đàn bà; khi thì làm thường dân, khi
thì làm vua chúa; kiếp này đầu thai làm giống dân này, kiếp kia làm giống dân
khác... Cho đến khi linh hồn đạt tới mức hoàn thiện. Linh hồn con người cũng ví
như một anh tài tử sân khấu đóng nhiều vai trò khác nhau và mặc những bộ y phục
khác nhau từ đêm này qua đêm khác. Hoặc cũng ví như ta mặc một cái áo bằng vải
trong một thời gian, và khi nó đã cũ, thì vứt bỏ để đổi lấy một cái áo khác.
Nhiều bậc Hiền Triết và các nhà thông thái, trí thức siêu việt của Âu Tây cũng
đã chấp nhận thuyết Luân Hồi và đã viết nhiều sách vở về vấn đề này, trong số
đó có Pythagore, Platon, Plotin, Giordanno Bruno, Goethe, Whitman, Emerson, và
Schopenhauer.
Ông Cayce bày tỏ ý kiến: "Những điều đó hẳn là
đúng sự thật hiển nhiên rồi; nhưng còn đạo Cơ Đốc thì sao? Nếu tôi chấp nhận
thuyết Luân Hồi thì phải chăng điều đó có nghĩa là tôi phủ nhận đấng Christ thì
rõ. Một luật gia trong số những người Pharisiens đã đưa ra câu hỏi đó cho đấng
Christ, và Ngài đáp rằng: Ngươi hãy kính yêu Chúa ngươi một cách hết lòng và hết
cả tâm hồn. Và ngươi hãy thương yêu kẻ đồng loại của ngươi cũng như ngươi vậy.
Hai điều răn đó là tất cả giáo luật và lời dạy của các nhà Tiên Tri"
(Mathieu 22:35-40.)
Những lời dạy giản dị và sâu xa về tình bác ái đó có
khác gì với lời dạy về sự tiến hóa và thuyết Luân Hồi? Và nó có khác gì với những
giáo lý của bất cứ tôn giáo nào trên thế giới? Đức Phật đã dạy: "Ngươi đừng
làm hại kẻ khác nếu ngươi không muốn cho kẻ khác làm hại mình." Và những
Thánh Kinh của Ấn Giáo cũng dạy rằng: "Ngươi đừng làm điều gì cho người
khác mà ngươi không muốn người khác làm cho ngươi."
Ấn Giáo cũng như Phật Giáo, đều không thấy có cái sự
khác biệt, dị đồng giữa luật bác ái và luật tiến hóa tâm linh mà người ta gọi
là Luân Hồi. Những tôn giáo ấy chỉ nhấn mạnh ở luật Luân Hồi nhiều hơn mà thôi,
chớ không cho rằng hai luật ấy tương phản nhau. Nhưng ông Cayce vẫn chưa chịu
thuyết phục. Năm lên 10 tuổi, người ta đã cho ông đọc bộ Thánh Kinh (Bible) và
ông rất lấy làm say mê. Từ đó, ông nhất định đọc lại bộ sách ấy mỗi năm một lần,
suốt đời ông. Trong những năm ấy, ông không hề thấy một lần nào trong sách đó
có chữ Luân Hồi. Vậy thì tại sao bộ Thánh Kinh, và điều quan trọng hơn nữa, là
đấng Christ lại không hề nói đến vấn đề này?
Ông Lammers thì nghĩ rằng: "Có lẽ đấng Christ
có nói về vấn đề Luân Hồi."
Trước hết, ta nên nhớ rằng đấng Christ đã truyền dạy
cho các vị môn đồ nhiều giáo lý mà Ngài không đem giảng dạy cho quần chúng. Và
dầu cho Ngài có dạy thuyết Luân Hồi cho một số đông người, ta đừng quên rằng trải
qua nhiều thế kỷ, phần chánh giáo của Ngài đã chịu nhiều sự biến thiên dời đổi
do những sự diễn đạt của người đương thời và do sự phiên dịch qua nhiều thứ tiếng.
Bởi vậy, có thể rằng nhiều giáo lý nguyên thủy của Ngài đã bị thất truyền. Tuy
nhiên, ở một vài đoạn trong Thánh Kinh, người ta thấy có sự ngụ ý về vấn đề
Luân Hồi. Đấng Christ có lần nói với các môn đồ rằng Thánh Jean-Bastiste tức là
Elie tái sinh (Mathieu 17:12-13). Ngài không có dùng chữ Luân Hồi tái sinh,
nhưng Ngài lại nói một cách rõ ràng không úp mở, rằng "Elie đã trở lại...
Và khi đó các môn đồ hiểu rằng Ngài nói với họ về Thánh Jean-Bastistẹ"
Trong một đoạn khác, các môn đồ hỏi Ngài về một người mù: "Bạch Sư Phụ, ai
đã gây tội lỗi? Chính người này hay là cha mẹ y đã phạm tội, khiến cho y sinh
ra đã bị mù?" Nhiều đoạn khác trong Thánh Kinh cũng ám chỉ, hoặc hàm xúc ý
nghĩa về Luân Hồi. Ta hãy đọc trong thiên Apocalypse, Chương mười ba, câu thứ
mười: "Kẻ nào cầm tù kẻ khác sẽ bị kẻ khác cầm tù; kẻ nào sử dụng gươm đao
sẽ chết vì gươm đao."
Câu ấy ám chỉ rằng có một định luật quả báo hành động
từ kiếp này sang kiếp khác. Có điều chắc chắn là phe chính thống của Cơ Đốc
giáo đã lần lần góp nhặt và tu chỉnh những phần giáo lý của đấng Christ không
có nói về vấn đề Luân Hồi; nhưng làm sao người ta có thể chắc chắn rằng sự diễn
đạt và chọn lọc của phe chính thống đối với những giáo lý nguyên thủy là hoàn
toàn vô tư và không thiên lệch? Nghiên cứu tiểu sử các vị cố đạo Gia Tô thời cổ,
người ta thấy có nhiều vị trong số đó đã nhìn nhận thuyết Luân Hồi trong những
tác phẩm của họ, và đã công khai giảng dạy thuyết ấy, như Origene, Jutin Thánh
Jerome, Clement d' Alexandrie, Plotin và nhiều vị khác nữa. Những vị này đã từng
sống vào thời kỳ gần với thời đại của đấng Christ. Phải chăng các vị ấy đã biết
và truyền bá những phần giáo lý bí truyền có từ nghìn xưa, mà đấng Christ chỉ dạy
riêng cho 12 vị tông đồ thân tín của Ngài mà thôi?
Theo ông Lammers, thì đức giám mục Mercier tuy không
tin tưởng nơi thuyết Luân hồi, nhưng đã tuyên bố rằng thuyết ấy không trái với
những giáo điều căn bản của đạo Gia Tô.
Những điều kể trên đã giải tỏa bớt những nỗi thắc mắc
băn khoăn của ông Cayce, vì ông đã tưởng rằng ông dùng những quyền năng lạ lùng
của mình một cách trái Đạo, tức là tương phản với tôn giáo gốc của ông. Ngoài
ra, ông cũng còn có một vài điểm thắc mắc nghi ngờ về quyền năng của mình,
nhưng điều này lại có một tánh cách khoa học. Một thí dụ: Làm sao giải thích sự
gia tăng dân số lớn lao trên thế giới hiện nay nếu người ta chấp nhận rằng tất
cả những linh hồn đều đã có sống trên mặt đất? Vậy thì số sai biệt phụ trội đó ở
đâu mà ra. Tất cả gia đình ông Cayce, cùng ông Lammers, các cô bí thư Gladys
Davis và Linden Shroyer đều thường họp mặt trong phòng khách để thảo luận về những
vấn đề ấy. Khi tất cả mọi người đều cạn ý kiến, thì người ta mới nhớ đến sự
khám nghiệm bằng năng khiếu Thần Nhãn của ông Cayce để tìm ra sự giải đáp; và
khi những cuộc khám nghiệm đó có những điều đáng ngờ vực, thì họ tham khảo tài
liệu ở các sách báo trong thư viện quốc gia.
Nói về vấn đề gia tăng dân số trên thế giới, thì tìm
ra câu giải đáp cũng không phải là một điều khó. Một người trong nhóm nói rằng
dầu sao, chúng ta có chắc rằng quả thật có sự gia tăng dân số hay không? Những
cuộc khám nghiệm đã qua có nói về những nền văn minh cổ xưa ở Ai Cập, và ở châu
Atlantide nay đã biệt tích. Ở Cao Miên, Mễ Tây Cơ, Ai Cập và ở các xứ Đông
Phương, những tàn tích khảo cổ đã xác nhận rằng những nền văn minh lớn cổ xưa
đã từng xuất hiện trên những vùng lãnh thổ rộng lớn, mà ngày nay chỉ còn là những
bãi sa mạc. Như thế người ta có thể quan niệm được rằng ở vào những thời kỳ
khác nhau trong lịch sử, có những lúc mà dân số trồi sụt không đồng đều, nhưng
vẫn không hề thay đổi linh hồn trong vũ trụ. Có thể rằng hằng triệu linh hồn vẫn
phảng phất trên các cõi vô hình trong những thời kỳ mà hoàn cảnh không thuận tiện
cho họ đầu thai xuống cõi trần.
Tuy ông Cayce vẫn có óc hoài nghi, nhưng ông đã hài
lòng về câu giải đáp hữu lý trên đây. Nhưng còn châu Atlantide cũng lại là một
vấn đề nan giải khác nữa. Làm sao chúng ta có thể biết rằng châu Atlantide là
có thật? Hay đó chỉ là chuyện hoang đường? Những cuộc khám nghiệm bằng Thần
Nhãn của ông Cayce đã đưa ra câu giải đáp cho vấn đề ấy một cách tường tận tỉ
mì và với rất nhiều chi tiết:
Nhà triết học Platon là người đầu tiên ở phương Tây
đã tường thuật sự hiện diện của châu Atlantide, nay đã chìm dưới đáy biển Đại
Tây Dương. Và mặc dầu quần chúng ngày nay không chý ý đến, nhưng những nhà địa
chất học cũng đã từng quan tâm về vấn đề này. Họ vẫn không đồng ý với nhau, người
thì phủ nhận, kẻ thì quả quyết sự hiện diện của châu Atlantidẹ. Dầu sao cũng có
một số lớn sách vở của những tác giả uyên bác đã nói đến vấn đề này và đã đưa
ra rất nhiều bằng chứng lịch sử, văn hóa và khoa học, bổ trợ lẫn cho nhau. Ông
Cayce đã đọc một quyển nhan đề "Châu Atlantide, một thế giới của thời kỳ
tiền sử" của tác giả Ignatius Donnelly, và rất ngạc nhiên mà nhận thấy rằng
những cuộc khám nghiệm của ông đã diễn tả đúng y như những bằng chứng căn bản
nêu trong quyển sách ấy.
Những cuộc thảo luận và khảo cứu tài liệu ở các sách
vở về lịch sử, khoa học, tôn giáo, đạo lý cổ truyền, về châu Atlantide và về
khía cạnh tâm lý của khoa thôi miên, là những vấn đề đã được nêu ra trong các
cuộc khám nghiệm bằng Thần Nhãn, đã giúp cho ông Cayce có được một tầm kiến thức
rộng rãi về văn hóa và lịch sử mà ông vẫn thiếu sót. Lần lần, ông bớt sợ hãi và
thắc mắc về những điều mà ông thốt ra trong giấc ngủ thôi miên, ông cảm thấy rằng
những điều ấy có thể chứa đựng một phần nào sự thật. Với một sự tọc mạch xen lẫn
với một khối óc phê bình, ông bắt đầu phân tách những cuộc khám nghiệm để kiểm
soát cho nó được hoàn toàn đúng đắn. Trước hết ông nhận thấy rằng những cuộc
khám nghiệm ấy đều có mạch lạc và liên đới lẫn nhau. Không bao giờ một cuộc
khám nghiệm này lại tương phản với một cuộc khám nghiệm khác, dầu là cách nhau
bao xa cũng vậy. Bởi đó, một người có thể được khám nghiệm một lần thứ nhì, nhiều
tháng hoặc nhiều năm sau lần thứ nhất: Những tài liệu đều ăn khớp với nhau và nối
tiếp theo nhau một cách đúng đắn, chẳng khác nào như người ta lật một quyển
sách ở chỗ trang đã được làm dấu sẵn, để đọc tiếp theo đoạn sách đã bỏ dở kỳ
trước. Phần nhiều những cuộc soi kiếp đưa ra những tài liệu tổng quát về những
thời kỳ cổ xưa, như ở Ai Cập và châu Atlantide.
Khi người ta đem đối chiếu những cuộc soi kiếp đó với
nhau, thì thấy rằng những chi tiết rời rạc và thiếu sót đã bổ khuyết lẫn nhau
và trở nên hoàn bị hơn: Mỗi cuộc soi kiếp lập lại một phần những gì đã được nói
ra trong một lần trước, hoặc thêm vào một chi tiết mới cho toàn thể câu chuyện.
Không chỉ các cuộc soi kiếp đều hòa hợp lẫn nhau, mà
còn xác nhận lẫn nhau trên nhiều điểm về những sự việc được ghi chép trong lịch
sử, dầu cho đó là những sự việc bí ẩn tối tăm, thuộc về phần ngoại sử. Thí dụ:
Một trong những cuộc soi kiếp nói rằng một người nọ, trong một tiền kiếp, đã từng
làm một người "Phóng ghế." Ông Cayce không hề biết "Phóng ghế"
nghĩa là gì, và khi tra cứu tự điển, ông mới thấy rằng danh từ đó ám chỉ một
phong tục cổ xưa của dân miền Bắc Mỹ: Người ta trói những mụ phù thủy trên những
chiếc ghế đẩu và cầm chân ghế chổng ngược để nhận chìm họ xuống ao nước lạnh.
Một thí dụ khác: Trong cuộc soi kiếp cho một người thanh
niên, ông Cayce nói rằng trong một kiếp trước, y đã sống ở bên Pháp, tại đây y
gặp gỡ và làm bạn với nhà bác học Mỹ Robert Fulton và đã giúp đỡ người này
trong sự thực hiện một vài phát minh khoa học. Ông Cayce biết rõ Robert Fulton
nhưng ông không tin rằng ông này đã sống ở nước ngoài, ngoại trừ nước Mỹ. Sau
khi tra cứu một quyển tự điển về tiểu sử các nhân vật ông mới biết rằng ông
Fulton đã có ở bên Pháp nhiều năm, và đã được nhiều người quen biết giúp đỡ và
khuyến khích trong ngành hoạt động của ông.
Ngoài ra những sự xác nhận lịch sử lạ lùng nói trên
về những tiền kiếp, còn có rất nhiều bằng chứng khác về kiếp hiện tại. Ông
Cayce biết rằng những sự phân tách tâm lý trong những cuộc soi kiếp của ông đều
đúng, không những đối với ông và những người trong gia đình, mà cũng đúng đối với
những người hoàn toàn xa lạ. Trong những cuộc soi kiếp cũng như trong những cuộc
khám bịnh, dầu cho đương sự có quen biết hay không đối với ông Cayce, điều đó
không có quan hệ gì cả. Họ có thể là những người hoàn toàn xa lạ hoặc ở bất cứ
nơi nào trên thế giới: Nếu ông có được đầy đủ tên họ, ngày sinh và nơi sinh của
những người ấy, ông có thể diễn tả một cách đúng đắn những hoàn cảnh hiện tại
cùng những điều bí ẩn trong tâm tính của họ. Ông cũng nói luôn cả những đức tính,
khả năng cùng những khuyết điểm của họ, và truy nguyên ra tất cả những điều đó ở
các tiền kiếp.
Những cuộc soi kiếp cũng đúng dưới một khía cạnh
khác. Ông Cayce đã có thể kiểm điểm lại những điều mà cuộc soi kiếp đã tiết lô
về tánh chất và khả năng nghề nghiệp tương lai của những đứa trẻ con: Một cuộc
soi kiếp ngày sinh của một đứa trẻ tai Norfolk, cho biết rằng sau này nó sẽ là
một đứa trẻ bướng bỉnh, cứng đầu và khó dạy. Khi nó lớn lên, những tính nết đó
càng ngày càng biểu lộ một cách rõ rệt, và cha mẹ nó cũng không thể làm cách
nào để sửa đổi được.
Trong trường hợp lý thú hơn nữa là của một đứa trẻ
khác mà cuộc soi kiếp cho biết rằng về sau y có thể trở nên một y sĩ có tài. Những
thói xấu mà cuộc soi kiếp trước cũng đã bắt đầu biểu lộ sớm, cùng một lượt với
sự thích thú đặc biệt về ngành y học. Vào năm tám tuổi, y đã bắt đầu mổ xác những
con thú đã chết để xem cơ thể bên trong con thú như thế nào. Chưa đầy mười tuổi,
y đã xem một cách say mê những bộ sách tự điển Y Khoa, và năm mười hai tuổi, y
cho cha mẹ biết rằng y có ý muốn sẽ vào trường Đại Học John Hopkins để theo
ngành Y khoa. Cha của đứa trẻ là một nhà kinh doanh thương mại ở New York; mẹ
y là một nữ tài tử. Lúc đầu, cha mẹ y đều phản đối ý định học Y khoa của y và
khuyên hãy bỏ ý định ấy. Nhưng đứa trẻ cương quyết giữ lập trường và sau cùng
đã thắng mọi trở lực. Hiện nay y đang học lớp dự bị về khoa Lý Hóa Sinh tại một
trường Đại Học lớn ở miền đông Hoa Kỳ. Trường hợp này chứng tỏ một lần nữa về
năng khiếu Thần Nhãn thật sự của ông Cayce, vì ông đã nhìn thấy kiếp trước của
đứa trẻ và chắc chắn rằng những khả năng đặc biết của y sẽ biểu lộ ra ở kiếp
này.
Những thí dụ kể trên chỉ rằng những cuộc soi kiếp của
ông Cayce có một giá trị rất lớn về sự tiên đoán tương lai, không những của trẻ
sơ sinh mà còn của những người lớn. Một cô điện tín viên ở nhà Bưu điện thành
phố New York lấy làm vô cùng ngạc nhiên về những bức điện tín lạ lùng mà cô đã
đánh đi nhiều lần về Virginia Beach. Cô ấy mới hỏi thăm về ông Cayce và quyết định
yêu cầu ông soi kiếp cho cô. Nhờ đó, cô biết rằng cô sẽ theo đuổi nghề nghiệp
điện tín viên, và tốt hơn cô nên học về ngành vẽ quảng cáo, vì trong nhiều kiếp
trước, cô đã là một nghệ sĩ có tài về ngành này. Cô ấy không hề có ý nghĩ theo
đuổi một nghệ thuật nào, dầu là kỹ nghệ họa hay bất cứ ngành nào khác, nhưng cô
ấy có đủ can đảm để học thử và xin ghi tên học ở một trường nọ. Cô lấy làm vô
cùng ngạc nhiên mà thấy rằng cô có năng khiếu và đã thành công rất mau chóng với
ngành kỹ nghệ họa, đồng thời cô cũng được cải tiến rất nhiều về nhân cách của
mình.
Với thời gian trôi qua, ông Cayce càng nhận thấy rằng
những cuộc soi kiếp của ông đã giúp ích cho rất nhiều người. Ông càng vững đức
tin hơn trước, khi thấy rằng công việc của ông làm là chánh đáng vì nó gây nên
những kết quả tốt đẹp. Có nhiều người được hướng dẫn theo những nghề nghiệp
thích hợp với họ; những người khác nhận được những lời chỉ giáo san bằng mọi sự
khó khăn trong đời sống gia đình; những người khác nữa đã tìm cách tự biết mình
và tập hòa mình một cách thích nghi với đời sống xã hội.
Những điều kể trên đã lần lần thuyết phục ông Cayce
về tánh cách chân thật và xác đáng của những cuộc soi kiếp bằng Thần Nhãn cũng
như của sự giải thích mà nó đưa ra về định mệnh của con người. Những điều nó
làm cho ông tin tưởng hơn hết là cái tinh thần Gia Tô giáo thâm sâu, tiềm tàng
trong những điều mà cuộc soi kiếp đã tiết lộ cho ông biết; và hơn nữa, cái tinh
thần Gia Tô giáo đó lại được đưa ra một cách dễ dàng và thích nghi trong khuôn
khổ của thuyết Luân Hồi.
Một cuộc soi kiếp ít khi nào mà không nêu ra một đoạn
sách trong Thánh Kinh hay một điều giảng dạy của đấng Christ. Những câu dẫn chứng
thông thường nhất là những lời dạy của đấng Christ như sau: "Ngươi gặt hái
những gì ngươi đã gieo" và "Hãy làm cho kẻ khác những gì ngươi muốn kẻ
khác làm cho ngươi." Đôi khi đó là những câu chú thích theo đúng nguyên
văn hoặc phác họa thêm ít nhiều tư tưởng theo nguyên văn, chẳng hạn như:
"Ngươi chớ lầm lạc: Không ai có thể kiêu ngạo
Chúa Trời! Vì ai gieo giống nào sẽ gặt giống nấy." Và: "Con người
luôn luôn là cái hậu quả của chính mình. Ngươi hãy làm điều lành cho những kẻ
đã phỉ báng nhục mạ ngươi, rồi ngươi sẽ cứu chuộc được những điều tội lỗi mà
chính ngươi đã gây ra cho kẻ khác."
Những lời dẫn chứng kể trên là để răn dạy những người
bị bịnh tật đau khổ, do hậu quả của những điều tội lỗi mà họ đã gây ra trong một
kiếp trước.
Khi sự hứng khởi nồng nhiệt lúc ban đầu đã lắng dịu,
thì nhóm người chung quanh ông Cayce mới bắt đầu đặt những câu hỏi về những điều
đã tiết lộ trong các cuộc soi kiếp của chính họ. Trước hết họ muốn biết tại sao
có một vài thời kỳ trong lịch sử luôn luôn tái diễn trở đi trở lại trong các cuộc
soi kiếp. Nhiều người lại có chung một bối cảnh lịch sử giống như nhau; nói tóm
lại, những điều diễn tả trong các cuộc soi kiếp hình như đều rập theo một khuôn
khổ. Các cuộc soi kiếp thường nêu ra một loạt các thời kỳ sau đây: Thời đại
Atlantide, Đế quốc La Mã, Thời kỳ Thánh Chiến (Croisades) và lúc khởi đầu thời
kỳ khai mở thuộc địa ở Bắc Mỹ. Một loạt khác gồm có: Châu Atlantide, Ai Cập, La
Mã, nước Pháp thời Louis 14, 15 và 16, và Giặc Phân Ly (Secession) ở Hoa Kỳ. Lẽ
tự nhiên, cũng có những trường hợp khác, gồm có Trung Hoa, Ấn Độ, Cao Miên,
Pérou, Bắc Âu, Phi Châu, Trung Mỹ, Ý, Tây Ban Nha, Nhật Bổn, và nhiều xứ khác;
nhưng phần nhiều các cuộc soi kiếp đều noi theo một khuôn khổ lịch sử như nhau.
Theo ông Cayce, lý do của sự kiện trên là vì những
linh hồn thuộc về một thời kỳ lịch sử nhất định, về sau thường chuyển kiếp đầu
thai chung một lượt ở một thời kỳ khác. Trong những thế kỷ ở khoảng giữa, thì
những nhóm linh hồn khác lại chuyển kiếp xuống trần theo đúng phiên bản của họ.
Sự thay phiên đầu thai từng nhóm một một cách có quy củ, trật tự như vậy cũng
giống như sự thay phiên từng toán thợ làm việc trong một cơ xưởng. Bởi đó, phần
nhiều những linh hồn đang sống trên thế gian hiện nay, đều đã cùng đầu thai với
nhau một lượt ở những thời kỳ quá khứ trong lịch sử. Ngoài ra, những linh hồn
có sự liên lạc gia đình, bè bạn hoặc đồng lý tưởng với nhau, có thể đã cùng có
những nhân duyên với nhau trong những kiếp trước.
Một câu hỏi khác được nêu ra: "Những tài liệu
đó do đâu mà có?" Câu trả lời là: Ông Cayce nằm trong giấc ngủ thôi miên,
có thể thâu thập những tài liệu đó ở hai nơi. Một là trạng thái vô thức của người
đang được soi kiếp. Trạng thái vô thức này giữ lại ký ức của tất cả những kinh
nghiệm mà đương sự đã trải qua, không những trong kiếp này mà cũng gồm luôn những
kinh nghiệm ở những kiếp trước. Những ký ức thuộc về kiếp trước được che khuất,
ẩn tàng trong những chỗ thâm sâu kín đáo nhất của tiềm thức, ngoài vòng hiểu biết
và thực nghiệm của khoa Tâm lý học hiện đại.
Ngoài ra, tiềm thức của một người là một lĩnh vực dễ
thăm dò bằng tiềm thức của một người khác, hơn là bằng trạng thái ý thức, chẳng
khác nào như một cảnh hỗn độn của một thành phố lớn, người ta có thể đi từ chỗ
này đến chỗ kia bằng đường xe điện ngầm (metro) một cách dễ dàng mau chóng hơn
là bằng những phương tiện khác ở trên mặt đất. Bởi lẽ đó, trong trạng thái thôi
miên, linh hồn ông Cayce tiếp xúc với linh hồn đương sự một cách trực tiếp bằng
tiềm thức. Sự giải thích này có thể được chấp nhận một cách dễ dàng; nó phù hợp,
ít nhất là một phần nào, với những sự phát minh của khoa phân giải tâm lý
(psychanalyse) về cuộc đời và trạng thái vô thức.
Nhưng còn cái nguồn gốc thứ hai đã giúp tài liệu cho
ông Cayce, thì dường như rất lạ lùng. Những cuộc soi kiếp gọi đó là những
"ký ức của không gian" (Clichés Akashiques). Như thường lệ, mỗi khi
nói đến một danh từ lạ và khó hiểu, ông Cayce đánh vần từng chữ trong giấc thôi
miên của ông: Akasha: Danh từ; Akashique: Tĩnh từ. Nói tóm tắt, ông Cayce giải
thích danh từ ấy như sau:
Akasha là danh từ Phạn ngữ (sanskrit) dùng để chỉ chất
dĩ thái tinh hoa căn bản của Vũ Trụ. Chất ấy có cái tác dụng như một cái phim ảnh
hay một cuốn phim chiếu bóng, trên đó được ghi nhận một cách rõ ràng không bao
giờ mất những âm thanh, ánh sáng, cùng mọi hành vi, tư tưởng của con người và tất
cả mọi sự gì ra trong vũ trụ kể từ thuở Vô Cực. Chính nhờ đó sự ghi nhận trong
ký ức của không gian đó mà những vị có Thần Nhãn có thể nhìn thấy dĩ vãng như đọc
một quyển sách phơi bày từng trang trước mặt họ, dầu cho những sự việc xảy ra
đã cách xa hằng bao nhiêu thời gian trong quá khứ. Chất Akasha có thể được coi
như một cái máy chụp ảnh vĩ đại của Vũ Trụ. Cái khả năng thấy ký ức của Thiên
Nhiên trên chất Akasha đó vốn tiềm tàng ở mọi người trong chúng ta: Nó tùy nơi
mức độ nhậy cảm của mỗi người, và tùy nơi chúng ta có thể đặt mình vào một trạng
thái thụ cảm thích nghi, cũng ví như khi chúng ta bắt đúng luồn sóng vô tuyến
trên máy thu thanh để nghe âm nhạc vậy. Trong khi thức tỉnh, ông Cayce không có
thể đặt mình vào trạng thái thụ cảm thích nghi, để "Bắt đúng luồn
sóng" như đã kể trên, nhưng trái lại trong giấc ngủ thôi miên ông có thể
làm được điều ấy.
Trong tất cả những điều bí ẩn mà ông Cayce đã thốt
ra trong giấc thôi miên, thì đó là điều mà ông cho là lạ lùng nhất. Tuy thế,
đáp lại những câu hỏi hoài nghi về vấn đề này, ông đều luôn luôn trả lời như
nhau, có khi thì dùng những danh từ giống nhau, có khi thì thêm vào những chi
tiết phụ thuộc. Có nhiều khi, ông nói thêm rằng những sự ghi nhận trên chất
Akasha cũng có thể gọi là "Ký ức của Vũ Trụ" hay "Quyển sách
Thiên nhiên."
Ông Cayce cũng đưa ra những sự giải thích đã có từ
nhiều thế kỷ trước về chất Akasha. Nền Triết học cổ Ấn Độ đã từng nói rằng căn
bản của vật chất vốn hư không; vật chất là sự kết tinh của một sức mạnh gọi là
sinh lực; và cũng nói về sự chuyển di tư tưởng bằng phương pháp Thần giao cách
cảm: Và những điều này gần đây đã được khoa học Âu Tây xác nhận. Vậy tại sao
chúng ta không có một thái độ cởi mở để chấp nhận ít nhất là tiềm năng của chất
Akasha, cũng là một quan niệm khác của Triết học Ấn? Sự giải thích bằng trạng
thái vô thức có thể chấp nhận được trong việc soi kiếp cho những người khác, nhưng
làm sao giải thích hiện tượng này là ông Cayce đã nói rất nhiều chi tiết đầy đủ,
nó tuôn tràn một cách dồi dào như suối chảy trong những cuộc khám nghiệm sưu tầm
về những thời đại cổ xưa ở châu Atlantide, Ai Cập, và thời kỳ của đức Chúa
Jesus?
Có thể nào ông đã góp nhặt tài liệu trong tiềm thức
của những người đã từng sống vào những thời kỳ đó chăng? Mặc dầu họ không phải
là những người đến nhờ ông soi kiếp? Hay ông Cayce đã khám phá ra những điều đó
trong ký ức của Lịch Sử, được ẩn dấu tiềm tàng và giữ gìn nguyên vẹn trong những
cõi vô hình huyền bí của Vũ Trụ? Sau cùng ông Cayce đã chấp nhận quan niệm về
chất Akasha, không phải vì ông có một bằng chứng tuyệt đối về đều ấy, mà bởi vì
nó đã được xác nhận trong những cuộc khám nghiệm bằng Thần Nhãn; và những cuộc
khám nghiệm của ông về tất cả mọi vấn đề từ trước đến nay đều đúng đắn và hoàn
toàn đáng tin cậy.
Có lẽ sự dùng Thần Nhãn để nhìn thấy những sự việc
đã xảy ra trong quá khứ cũng có thể được giải thích bằng những cách khác; và
cũng có lẽ trong tương lai, một nhà bác học hiện đại nào đó có thể chứng minh sự
thật về chất Akasha, và điều này rốt cuộc cũng không phải bí mật lạ lùng gì hơn
những hiện tượng đã có, chẳng hạn như luồng sóng vô tuyến, tánh chất phóng
quang của chất radium, nguyên tử lực, hoặc trí nhớ của bộ Óc con người, và sự
truyền cảm của bộ Thần kinh hệ. Dầu sao, những cuộc soi kiếp của ông Cayce và sự
đúng đắn một cách lạ lùng của nó là một sự thật hiển nhiên. Trong khoảng 22 năm
trường, bắt đầu từ năm 1923 trở đi là năm mà ông Cayce bắt đầu soi kiếp và khám
bịnh bằng Thần Nhãn, cho đến năm 1945 là năm ông từ trần, ông đã soi kiếp cho tất
cả độ 2.500 người. Cũng như những cuộc khám bịnh bằng Thần Nhãn, những cuộc soi
kiếp đều được ghi chép trong các tập hồ sơ và được giữ gìn cẩn thận. Nhiều thơ
từ văn kiện đã chứng minh cho sự đúng đắn của nhiều cuộc soi kiếp, mỗi khi có đủ
bằng chứng xác nhận về sự đúng đắn của những điều đã tiết lộ. Những người nào
muốn tìm biết sự thật về những điều này vẫn còn có thể chất vấn nhiều người hiện
nay còn sống và đã từng được ông Cayce soi kiếp cho họ.
Như vậy, nếu chúng ta có thể tin tưởng nơi tánh cách
chân thật của những tập hồ sơ văn kiện lạ lùng đó và sự giải đáp của nó về những
bài toán bí hiểm của cuộc đời, thì ta đã có trong tay một số tài liệu khổng lồ
và hiếm có về vấn đề này. Trước hết chúng ta có một số bằng chứng cụ thể hiển
nhiên về luật Luân Hồi, là một nguyên tắc tiến hóa căn bản của con người. Và tất
cả những yếu tố kể trên cũng chưa đủ để hoàn toàn thuyết phục chúng ta, thì ít
nhứt nó cũng đáng để cho chúng ta chú ý vì mục đích khảo cứu và sưu tầm khoa học.
Có biết bao nhiêu những cuộc phát minh lớn lao vĩ đại, lúc ban đầu cũng chỉ căn
cứ trên những giả thuyết lạ lùng và khó tin. Khi người ta hỏi nhà bác học
Einstein bằng cách nào ông ta đã phát minh ra thuyết Tương Đối luận, ông đáp:
-Tôi chỉ thử đưa một nghi vấn về một định lý.
Ngoài ra, chúng ta còn có một số tài liệu rất dồi
dào về tâm lý, y lý và triết lý, nó đem đến cho ta một tầm kiến thức rộng rãi
và khác hẳn về cuộc đời.
Trong khoảng hai mươi hai năm đó có biết bao nhiêu
người đau khổ tuyệt vọng đã tìm đến ông Cayce và đã được ông săn sóc giúp đỡ do
sự hiểu biết thâm sâu và năng khiếu Thần Nhãn của ông. Họ bị đủ thứ đau khổ bịnh
tật về thể xác lẫn tinh thần, và tất cả đều muốn tìm sự giải đáp cho câu hỏi
sau đây:
"Tại sao sự đau khổ này lại đến cho tôi?"
"Nguyên nhân vì đâu mà tôi bị sự đau khổ
này?"
Không phải tất cả những trường hợp đó đều là nguy cấp
hay tuyệt vọng. Có nhiều người xem ra thì những kiếp trước họ cũng tầm thường
như kiếp này, vì không có gì đặc biệt. Nhưng, dầu cho sự đau khổ của họ nặng
hay nhẹ, các cuộc soi kiếp đã chỉ cho thấy rằng cái thân phận và hoàn cảnh hiện
thời của họ là cái kết tinh của bao nhiêu nhân và quả nối tiếp lẫn nhau như những
cái khoen của một sợi dây xích và bắt đầu từ nhiều thế kỷ trước. Tất cả đều đã
được chỉ cho thấy rằng những bịnh tật, thống khổ của họ bây giờ đều có nguyên
nhân xa hay gần, do sự hành động của một định luật căn bản gọi là Luật Nhân Quả.
Những gì họ đã nghe và học hỏi đã làm cho họ thay đổi
cuộc đời; sự hiểu biết thâm sâu về bài học Nhân Quả đã giúp cho họ một nguồn an
ủi cùng tìm thấy sự thăng bằng và an tịnh của tâm hồn.
Nếu người ta chấp nhận tánh cách chân thật của những
cuộc soi kiếp, người ta cũng phải nhìn nhận sự kiện này là nó đã làm đảo lộn
trí óc và quan niệm của họ về cuộc đời. Tầm quan trọng của sự việc kể trên
không phải là nó đem đến cho ta một giả thuyết mới: đó là một lý thuyết rất cổ
xưa và đã từng là một điều tín ngưỡng của nhiều dân tộc rải rác ở nhiều miền lục
địa trên quả địa cầu. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce có một tầm quan trọng
vì hai điều này:
Điều thứ nhất: đây là lần đầu tiên ở Âu Mỹ mà người
ta đã có được những bản phúc trình đúng đắn mạch lạc, rõ ràng và đáng tin cậy về
những kiếp trước của một số nhiều người.
Điều thứ hai: đây là lần đầu tiên trong lịch sử thế
giới, những bản phúc trình đó được ghi chép và sắp thành hồ sơ có ngăn nắp, trật
tự, để cho mọi người có thể tra cứu, sưu tầm. Ngoài ra, những cuộc soi kiếp của
ông Cayce đã hợp nhứt triết lý Đông Tây càng thêm phần sinh sắc. Nhờ đó, chúng
ta đã có một sự tổng hợp rất cần thiết giữa hai quan điểm triết học khác nhau của
Đông Phương và Tây Phương.
Những cuộc soi kiếp bằng Thần Nhãn của ông Cayce
cũng đã tổng hợp khoa học và tôn giáo bằng cách chỉ cho ta thấy rằng cõi giới
tinh thần được cai quản bởi những định luật Nhân Quả một các đúng đắn cũng y
như cõi giới vật chất. Nó cho ta thấy rằng sự đau khổ của con người không phải
là do một sự rủi ro tình cờ theo quan niệm duy vật, mà là do bởi những tư tưởng
và cách hành động sai lầm trong quá khứ. Nó chỉ rằng những sự sai biệt và bất đồng
giữa thân thế, hoàn cảnh và khả năng của người đời không phải là do ý muốn độc
đoán của Thượng Đế hay là do ảnh hưởng mù quáng của sự di truyền, mà nó chỉ là
cái kết quả của những hành động và cách xử thế của con người trong kiếp trước.
Mọi sự đắng cay, thất bại, buồn rầu đều có một ý
nghĩa và mục đích giáo hóa chúng ta về hướng xử thế; những bệnh tật tai ương xảy
đến cho ta đều có một nguyên nhân sâu xa về tinh thần. Và tất cả những sự quằn
quại đau khổ đều là những bài học quý mà chúng ta thọ lãnh trên trường học lớn
của thế gian, ngõ hầu trong tương lai nó sẽ đưa chúng ta đến cái mục đích Minh
Triết và Toàn Thiện.
CHƯƠNG 4
VÀI LOẠI QUẢ BÁO XÁC
THÂN
Những người tàn tật,
đui què, câm điếc, những người bị các chứng nan y, đó là những thí dụ rõ rệt nhứt
về sự đau khổ của người đời. Đứng trước những cảnh đau khổ đó, chúng ta cảm thấy
một lòng trắc ẩn sâu xa và thấm thía. Khi mà một trong những cảnh khổ đó xảy đến
cho ta, khi chúng ta gặp phải những cảnh ngộ đắng cay, trái ngược, chúng ta có
lẽ đâm ra hoài nghi về lòng nhân từ bác ái của đấng Tạo Hóa. Có lẽ chúng ta sẽ
tự hỏi: "Tại sao tôi bị sự đau khổ này? Và tại sao cảnh khổ này lại xảy đến
cho tôi?"
Anh X... Là một người hiền lành và đức hạnh hơn người.
Anh đã bị mất hết gia tài, sản nghiệp và tất cả mấy đứa con anh đều chết hết;
anh chịu đựng những cảnh khổ đó một cách kiên nhẫn và không phàn nàn rên siết.
Nhưng khi anh bị một chứng bịnh kỳ quái làm toàn thân anh đều nổi các mụt nhọt
lở loét, ghê tởm, thì anh X... Bèn nguyền rủa Thượng Đế lần đầu tiên, và cũng lần
đầu tiên, anh la lên trong cơn tuyệt vọng để tìm biết lý do những sự đau khổ đã
xảy đến: "Ai có thể nói cho tôi biết, rồi tôi sẽ im lặng và an phận. Tôi
đã gây nên những tội lỗi gì?"
Nói rằng nguyên nhân sự đau khổ là do bởi những hành
động sai lầm, tội lỗi gây ra, thì người thời nay thường cho đó là một điều dị
đoan, di sản của những tôn giáo cổ xưa đã lỗi thời. Ít người chịu suy nghĩ và
nhìn nhận điều đó. Tuy vậy, theo những cuộc soi kiếp của ông Cayce, thì tội lỗi
và đau khổ đi liền với nhau như bóng với hình, và giữa Nhân với Quả vốn có một
sự liên quan chặt chẽ.
Để hiểu rõ cái quan niệm trên, nó làm nền tảng cho
những cuộc soi kiếp của ông Cayce, ta cần hiểu ý nghĩa của danh từ Karma, là
danh từ duy nhất giải thích ý nghĩa về vấn đề Nhân Quả. Karma là một danh từ Phạn
ngữ, có nghĩa là hành động. Nhưng theo ý nghĩa về triết học, thì nó định nghĩa
Luật Nhân Quả, là một định luật cai quản và chi phối mọi hình thức sinh hoạt
trong Trời Đất. Ông Emerson là người đã từng hấp thụ và tin tưởng nền Triết học
Ấn Độ, gọi đó là Luật Thừa Trừ. Đấng Christ cũng đã nói về luật ấy một cách gọn
gàng giản dị trong câu: "Ngươi sẽ gặt những gì ngươi đã gieo". Định lý khoa học của Newton nói rằng: "Mỗi
hành động đều gây nên một phản ứng tương đương và ngược chiều", áp dụng
trên cả hai phương diện vật chất lẫn tinh thần.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce làm cho người ta
thích thú say mê vì nó khám phá ra tận nguồn gốc của những bịnh tật đau khổ
trong kiếp hiện tại, truy nguyên ra từ những hành động ở những kiếp quá khứ, và
làm sáng tỏ một cách rõ ràng cái quan niệm trừu tượng về Nhân Quả. Một sự
nghiên cứu tỉ mỉ về những trường hợp đã khám nghiệm cho biết rằng có nhiều loại
quả báo khác nhau. Một trong những loại đó có thể gọi là "Quả Báo Dội Ngược",
nghĩa là một hành động gây tổn thương cho kẻ khác, kết quả sẽ dội ngược trở về
bản thân của đương sự.
Trong những tập hồ sơ của ông Cayce, có nhiều thí dụ
về loại quả báo này, mà một trường hợp được kể ra như sau: Một vị giáo sư dạy
nhạc, lúc mới sinh ra đã bị mù mắt, có nghe nói về ông Cayce trong một chương
trình phát thanh "Những Sự Mầu Nhiệm". Ông bèn đến nhờ ông Cayce khám
bịnh và sau một thời gian chạy chữa theo sự chỉ dẫn của ông Cayce, ông ta cảm
thấy khá nhiều. Ba tháng sau, ông đã thuyên giảm được 10 phần trăm về con mắt
bên trái, mà các nhà chuyên môn về bịnh đau mắt cho là đã hoàn toàn hỏng. Kế
đó, một cuộc soi kiếp cho thấy rõ ràng tất cả bốn tiền kiếp của ông ta: Kiếp thứ
nhất ở Bắc Mỹ hồi thời kỳ Chiến tranh Phân Ly (Secession); kiếp thứ nhì ở Pháp
hồi thời kỳ Giặc Thánh Chiến (Croisades); kiếp thứ ba ở Ba Tư vào khoảng 1.000
năm trước Tây lịch; và kiếp thứ tư ở Châu Atlantide trước khi xảy ra cuộc Đại Hồng
Thủy. Chính trong kiếp thứ ba ở Ba Tư, ông ta đã gây nên cái nhân ác nó báo ứng
bằng sự mù mắt của ông ta trong kiếp này. Hồi đó, ông ta có chân trong một bộ lạc
dã man có tục lấy dùi sắt nhọn nung đỏ châm vào mắt những tù binh, và chính ông
ta là đao phủ quân hành tội các tù nhân bằng cách đó.
Một thí dụ thứ hai đáng được ghi nhớ là trường hợp của
một thiếu nữ làm nghề sửa móng tay, bị chứng liệt bại cả hai chân từ khi mới
lên một tuổi. Cô này không thể đi đứng gì được, nếu cô không dùng nạng chống và
những dụng cụ nối xương nhân tạo. Cuộc soi kiếp tiết lộ rằng nguyên nhân của bịnh
trạng cô bây giờ là do một tiền kiếp ở Châu Atlantide. Trong kiếp đó, cô đã
dùng những phép thuật tà đạo để làm cho kẻ khác bị yếu mềm cả tay chân, trở nên
bất lực và chịu để cho cô sai khiến. Bởi vậy trong kiếp này cô phải chịu quả
báo về sự tổn thương mà cô đã gây ra cho kẻ khác. (Trong cuộc soi kiếp, ông
Cayce thường dùng chữ "Linh hồn" để chỉ đương sự, vì con người vốn là
một linh hồn bất tử đầu thai từ kiếp này sang kiếp khác để học hỏi những bài học
kinh nghiệm cần thiết trên đường tiến hóa đưa đến mức Toàn Thiện).
Một thí dụ thứ ba về quả báo dội ngược được kể ra
như sau: Một người đàn bà 40 tuổi từ lúc nhỏ bị một chứng bịnh kỳ lạ. Mỗi khi
cô ăn một vài thức ăn như bánh mì, hoặc chất ngũ cốc, thì bị nhảy mũi dữ dội
như bị chứng sổ mũi hoặc cảm cúm. Khi cô dùng đến một vài thứ đồ vật dụng, nhất
là đồ bằng da hay bằng chất nhựa (plastique), thì lại cảm thấy đau nhói dữ dội ở
bên hông trái. Cô đã đi khám bịnh với nhiều bác sĩ, nhưng không có kết quả, và
cho biết rằng cô chỉ thấy bớt trong những cuộc chữa bịnh bằng thôi miên lúc 25
tuổi. Sự thuyên giảm đó kéo dài được sáu năm, nhưng triệu chứng cũ lại tái
phát. Cô đến nhờ ông Cayce chữa bịnh. Cuộc soi kiếp tiết lộ rằng:
"Trong một tiền kiếp, linh hồn này làm nghề bào
chế sư, y đã dùng nhiều chất hóa học để gây tổn thương cho kẻ khác. Bởi đó y bị
hành xác bằng những chất hóa học trong kiếp này. Linh hồn này cũng đã dùng một
vài chất độc để làm cho kẻ khác bị nghẹt thở, bởi đó ngày nay cô bị nhiễm độc bởi
một vài chất kim khí, chất nhựa, và đồ da thuộc bằng chất hóa học... "
Một loại quả báo thứ nhì trên địa hạt vật chất có thể
được gọi là quả báo về xác thân, theo đó sự lạm dụng cơ thể trong một kiếp sẽ
gây nên quả báo thích nghi trong một kiếp sau. Đây là một ví dụ:
Một người đàn ông 35 tuổi, từ thuở nhỏ đã bị chứng
đau ruột và bộ máy tiêu hóa. Y phải ăn uống kiêng cữ gắt gao và chỉ dùng được một
vài thức ăn giản dị mà thôi, và mặc dầu như thế, y cũng tiêu hóa các bữa ăn của
y một cách khó khăn, sau nhiều giờ vất vả và mệt nhọc. Chứng bịnh này gây cho y
rất nhiều điều bất tiện, và gây trở ngại không ít trong đời sống ngoài xã hội.
Cuộc soi kiếp của ông Cayce tiết lộ cho biết nguyên nhân của bịnh trạng này là
trong một tiền kiếp dưới trào vua Louis 13 bên Pháp, y làm chức hầu cận của nhà
vua. Y thừa hành chức vụ một cách tận tâm và chu đáo, nhưng y có tật tham ăn và
ăn uống quá độ. Trong một kiếp trước nữa, khi y làm nghề y sĩ dưới triều vua nước
Ba Tư, y cũng ăn uống vô tiết độ. Như thế trong hai kiếp, y đã phạm cái lỗi về
tâm lý là lạm dụng sự ăn uống để tìm khoái lạc của nhục thể. Điều này làm đảo lộn
sự quân bình trong trạng thái tâm lý của y, và phải được thừa trừ bằng một cách
nào đó trong kiếp hiện tại. Quả báo về xác thân làm cho y bị đau bộ máy tiêu
hóa, và bắt buộc y phải hạn chế ăn uống trong kiếp này.
Một loại quả báo thứ ba về thân xác mà người ta thường
thấy trong nhũng cuộc soi kiếp của ông Cayce, có thể gọi là "Quả báo Tượng
Trưng". Đây là một loại quả báo rất lạ kỳ và thú vị nhứt trong các loại quả
báo về thể xác. Một trường hợp của loại quả báo này được kể ra như sau:
Ông Cayce có soi kiếp cho một người thanh niên bị bịnh
thiếu máu từ thuở nhỏ. Y là con của một vị bác sĩ, bởi đó y đã được săn sóc thuốc
thang và chạy chữa đủ cách, nhưng vẫn vô hiệu quả. Một chứng bịnh nan y như thế
hẳn là phải có một nguyên nhân rất sâu xa. Cuộc soi kiếp cho biết rằng trong một
tiền kiếp ở xứ Perou, đã năm kiếp về trước, linh hồn này làm tướng đem quân chiếm
đoạt xứ ấy một cách bạo tàn. Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce nói: "Cuộc chiến
tranh đó đã làm cho bao nhiêu đầu rơi máu chảy, gây nên một thảm họa lưu huyết
rất lớn. Bởi đó trong kiếp hiện tại của linh hồn nầy, y bị bịnh mất máu, không
sao chạy chữa."
Chúng ta sẽ hiểu rõ ý nghĩa câu này hơn, nếu chúng
ta so sánh với trường hợp quả báo về thể xác, vì tội lỗi của người này không phải
do sự lạm dụng một bộ phận nào trong cơ thể của y. Đây cũng không phải là một
trường hợp "Quả báo dội ngược", vì nếu như thế thì người thanh niên
này có lẽ đã là nạn nhân của một cuộc tàn sát hung bạo, chẳng hạn như y có thể
là một người lính Ba Lan bị quân Đức Quốc Xã của Hitler sát hại.
Trái lại, ở đây chúng ta thấy nghiệp báo ứng vào
chính thể xác của y: Nó trở thành một vật khí dụng cho y dùng để trả quả. Bịnh
mất máu làm cho cơ thể yếu đuối suy nhược suốt một đời, chính là một cơ hội trả
quả nặng nề đau đớn hơn và có một ý nghĩa giáo dục rộng rãi hơn là một cái chết
vì đao kiếm trên bãi chiến trường. Linh hồn này đã làm đổ máu cả một dân tộc để
làm thỏa mãn tham vọng chinh phục đất đai. Trong kiếp này sự yếu đuối bất lực do
bịnh thiếu máu gây nên làm cho y chịu quả báo một cách tượng trưng.
Điều này có vẻ hình như hoang đường, nếu chúng ta
không quen với những quan niệm thuộc về loại đó, qua sự phát minh gần đây về những
sự tương quan giữa linh hồn và thể xác theo khoa Tâm Bịnh Học
(Psychosomatique).
Trước đây không lâu, người ta vẫn tưởng rằng tất cả
mọi chứng bịnh đều do những nguyên nhân về sinh lý. Những sự tiến bộ của khoa
chữa bịnh tinh thần (Psychiatrie) đã chỉ rằng ít nhất có vài bịnh trạng nguyên
nhân là do bởi những sự xáo trộn tinh thần hoặc xúc động tình cảm gây nên. Từ sự
khám phá này mới nảy sinh một ngành Y học mới, gọi là khoa Tâm bịnh học
(Psychosomatique, do hai danh từ Hy Lạp: Psyche là linh hồn, và soma là xác thể),
khoa này cũng đạt được những kết quả hiển nhiên và không thể chối cãi về sự
liên quan giữa xác thể và linh hồn.
Khoa Tâm bịnh học đã chứng minh rằng những sự căng
thẳng về tình cảm nếu không biểu lộ được bằng lời nói hay hành động, thường tự
biểu lộ nơi thể xác một cách tượng trưng bởi một thứ "Tiếng nói của cơ thể".
Thí dụ: Nếu người bịnh không nuốt được một cách trôi
chảy trong bữa ăn mà người ta không tìm thấy có một nguyên nhân nào thuộc về cơ
thể, thì đó có thể là một cái gì trong đời của bịnh nhân mà y "Không thể
nuốt được." Sự buồn mửa, nếu không phải là do bịnh tật của cơ thể sinh ra,
có nghĩa là người bịnh còn mang trong lòng một cái hận nào đó trong đời sống
tình cảm của y.
Dường như có một sự tương quan chặt chẽ giữa "Tiếng
nói của cơ thể" theo khoa Tâm bịnh học và điều mà người ta gọi là "Quả
báo tượng trưng." Trong các trường hợp sau này, dường như đương sự có một
ý thức sâu xa thâm trầm về tội lỗi của mình, và cái ý thức đó biểu lộ ra nơi một
bộ phận trong cơ thể. Sự chọn lựa một bộ phận nào sẽ tùy nơi cái ý nghĩa tượng
trưng của bộ phận ấy. Dưới đây là một vài thí dụ điển hình trong số rất nhiều
trường hợp quả báo tượng trưng mà người ta tìm thấy trong các tập hồ sơ của ông
Cayce.
Một người bị chứng bệnh suyễn kinh niên, trong lúc
soi kiếp được nghe ông Cayce nói rằng: "Anh đã từng đè nén, áp bức kẻ
khác, lẽ tự nhiên, nhân quả báo ứng, có lúc anh phải cảm thấy nghẹn ngào khó thở,
cũng như chính anh bị kẻ khác đè nén và áp bức vậy".
Một người điếc bị cảnh báo rằng: "Như vậy anh đừng
bịt lỗ tai làm ngơ trước sự đau khổ của những người cầu xin anh giúp đỡ".
Cuộc soi kiếp cho biết người điếc này là một người dòng sang, quý tộc dưới thời
Cách Mạng Pháp, nhưng thường ngoảnh mặt làm ngơ trước những tiếng kêu rên siết
và những cảnh lầm than khốn khổ của người đương thời.
Một người bị chứng bịnh lao trong tủy xương sống, được
biết cho rằng: "Linh hồn này đã từng gây chướng ngại khó khăn cho kẻ khác.
Nên bây giờ y phải chịu những khó khăn chướng ngại đó trong thân thể của y".
Một người bị chứng bịnh rút gân, làm cho hai chân y
bị teo bắp thịt, càng ngày càng nhỏ dần, được cho biết rằng: "Đây không phải
là bịnh rút gân và teo bắp thịt mà thôi đâu; đó là hậu quả của những gì mà anh
đã làm cho kẻ khác trong những kiếp trước".
Trường hợp lạ lùng nhất về quả báo tượng trưng trong
các tập hồ sơ Cayce là trường hợp của một trẻ em mười một tuổi có tật đái dầm từ
khi mới lên hai tuổi. Trường hợp này được kể ra một cách đầy đủ chi tiết hơn,
vì tánh cách đặc biệt của sự điều trị cho em bé ấy.
Người thiếu niên này hồi nhỏ rất hiền lành, được cha
mẹ y nuôi nấng dễ dàng cho đến khi người mẹ sinh thêm một đứa em gái nhỏ: Từ
khi đó, y bắt đầu đái dầm trên giường trong giấc ngủ. Y đái dầm như vậy đều đều
mỗi đêm. Cha mẹ y nghĩ rằng có lẽ y cảm thấy bị bỏ rơi khi người mẹ sinh thêm một
em nhỏ nữa, nên tiềm thức của y khiến cho y tái diễn thói quen của tuổi sơ sinh
để làm cha mẹ y phải chú ý và săn sóc y như thuở ban đầu. Cha mẹ y bèn hết sức
cố gắng để tỏ cho y biết rằng tình thương của cha mẹ vẫn không thay đổi vì đứa
em gái nhỏ mới sinh, và y vẫn được thương yêu săn sóc như trước, nhưng vẫn
không có kết quả.
Khi đứa trẻ lên ba tuổi, cha mẹ y bèn nhờ một vị bác
sĩ chuyên môn về bịnh thần kinh chạy chữa cho y. Sau một năm thuốc thang điều
trị, y vẫn không thuyên giảm chút nào, và cha mẹ đành phải chịu vậy. Suốt năm
năm trường, y vẫn tiếp tục đái dầm mỗi đêm. Cha mẹ y chạy đủ thầy chuyên môn và
thử đủ mọi cách điều trị chứng bịnh vẫn trơ trơ không sao chữa khỏi. Y vẫn đái
dầm lên cho đến năm tám tuổi. Một lần nữa cha mẹ y lại chạy chữa với một bác sĩ
khác, và cuộc điều trị kéo dài suốt hai năm, nhưng vẫn không hiệu quả. Khi y
lên mười tuổi, thấy rằng cuộc điều trị vẫn không ăn thua gì, cha mẹ y mới thôi
và đành chịu phép. Khi y lên mười một tuổi, cha mẹ y nghe nói về thuật chữa bịnh
của ông Cayce. Người cha bèn yêu cầu ông Cayce khán bịnh về trường hợp kì lạ
này của đứa trẻ. Ông Cayce bèn dùng Thần Nhãn để soi kiếp cho đứa trẻ thì thấy
rằng trong kiếp trước, y là một người giáo sĩ đạo Gia Tô trong hồi xử án những
kẻ theo tà giáo. Chức vụ của y là trị tội những mụ đồng bóng, phù thủy bằng
cách trói họ trên những chiếu ghế đẩu, rồi cầm chân ghế chổng ngược đầu để nhận
chìm họ xuống ao nước lạnh. Sau khi tìm ra cái lý do nhân quả nói trên, cuộc
soi kiếp cho biết bịnh ấy có hy vọng chữa khỏi. Cha mẹ đứa trẻ được cho biết là
hãy áp dụng phương pháp ám thị cho y trong giấc ngủ, và sự ám thị này phải thuộc
về tinh thần chớ không phải về thể xác.
Vài hôm sau, khi về đến nhà, ban đêm người mẹ bèn đến
ngồi cạnh giường con trai bà. Đợi đến lúc y đã ngủ mê, bà mới bắt đầu nói bằng
một giọng trầm trầm và chậm rãi những lời này: "Con là một người hiền lành
tốt bụng. Con sẽ làm cho nhiều người được sung sướng. Con sẽ giúp đỡ tất cả những
người con gặp trên đường đời của con. Con rất hiền lương và tốt bụng". Bà
lặp đi lặp lại câu ấy nhiều lần, và thay đổi với những danh từ khác nhâu, tuy rằng
với bấy nhiêu ý tưởng đó trong chừng mười phút trở lại, trong khi con bà đang
ngủ mê. Đêm đó, lần đầu tiên từ chín năm nay, đứa trẻ không đái dầm như mọi khi.
Trong nhiều tháng, bà mẹ vẫn theo đuổi phương pháp ám thị đó và cũng vẫn dùng bấy
nhiêu lời tương tự. Đứa trẻ không đái dầm một lần nào trong suốt mấy tháng đó.
Lần lần, bà mẹ thấy rằng bà chỉ cần ám thị ba ngày một
lần, rồi sau đó mỗi tuần một lần là đủ; và sau cùng, sự ám thị cũng không còn cần
thiết nữa: Con bà đã hoàn toàn khỏi bịnh.
Trường hợp này có nhiều điểm lý thú. Trước hết là cuộc
ám thị vừa áp dụng đầu tiên, đã làm dứt hẳn một chứng bịnh kinh niên trong chín
năm. Và nếu người mẹ là một người đàn bà không có học thức và đức hạnh; thì có
lẽ người ta cho rằng đó là chuyện nói thừa; nhưng bà là một nữ luật sư ở Tòa
Án, bà không phải là một người tin nhảm hay dị đoan mê tín, và không có tâm địa
bất lương.
Điểm thứ hai là trong sự ám thị đó, bà mẹ không hề bảo
con là đừng đái dầm. Sự ám thị đó không nhằm vào cái ý thức về tâm linh của người
thiếu niên. Nói một cách khác, sự ám thị nhắm vào cái ý thức về sự tội lỗi mà y
đã làm trong kiếp trước, nó đã biểu lộ ra một cách tượng trưng trong thể xác của
y do đường tiểu tiện, thận và bọng đái. Kiếp trước y đã nhận người khác xuống
ao nước lạnh, hoặc chịu trách nhiệm về cái hành động tàn ác đó; kiếp này, y cảm
thấy trong chỗ kín đáo, u uẩn của tiềm thức, rằng y phải trả cái nghiệp ác đó,
và cái quả báo đã ứng hiện vào xác thân của y một cách tượng trưng. Mặc dầu
trong kiếp này, y không có làm hại ai, nhưng một lớp kín đáo trong tiềm thức
làm cho y nghi ngờ về lòng tốt của mình, vì y còn mang nặng trong lòng cái kỷ
niệm về sự trừng phạt nặng nề đau khổ mà y đã gây cho kẻ khác trong kiếp trước.
Sự ám thị của bà mẹ đã thức động đến cái lớp kín đáo u uẩn đặc biệt đó, làm cho
y hiểu rằng sự tội lỗi của y có thể xóa bỏ được bằng những hành động và cử chỉ
hiền lương, tốt lành, và bởi đó, cái quả báo tượng trưng kia sẽ không còn là cần
thiết nữa.
Từ đó người thiếu niên đã bắt đầu sống một cuộc đời
mới. Y được mọi người thương mến, y là một người học trò tốt và tỏ ra có khả
năng lãnh đạo. Tâm tình tánh chất của y đã thay đổi. Trong một cuộc giảo nghiệm
về khả năng tại Viện Đào Tạo Nhân Cách Johnson Os Connor, y đã được liệt vào hạng
những người có triển vọng thành công về sự giao tế ngoài xã hội. Người mẹ y cho
rằng sự thay đổi cá tính của y một phần nhờ bởi sự điều trị thần kinh, và một
phần nhờ bởi cuộc khán bịnh bằng Thần Nhãn của ông Cayce. Hiện nay, vào năm 18
tuổi, theo ý kiến của cha mẹ y, thì người thiếu niên có một đức tính căn bản là
rộng rãi khoan dung đối với mọi người. Đối với thói hư tật xấu của người đời, y
đều tìm cách bào chữa và tìm ra một sự giải thích về tâm lý để khoan dung và
tha thứ cho họ.
Dường như tánh độc ác, khắc nghiệt của y trong kiếp
trước, mà chứng bịnh đái dầm là một hình phạt tượng trưng, đã được biến đổi
thành một đức tánh khoan dung nhân hậu trong kiếp này. Nhờ đó cán cân nhân quả
đã được lập lại sự cân bằng, và căn bịnh quả báo của y cũng đã dứt tuyệt.
Nếu chúng ta xét lại những trường hợp nhân quả báo ứng
trên, chúng ta có thể thấy rõ một vài nguyên tắc hành động chung của Luật Nhân
Quả. Trong những cuộc khám nghiệm và soi tiền kiếp của ông Cayce, ông đã chỉ
cho ta thấy rằng mọi hành động trong quá khứ đều gây nên một nghiệp quả hiển
nhiên và cụ thể trong hiện tại. Nhưng cái nghiệp quả đó không phải lúc nào cũng
báo ứng một cách thật đúng khớp với cái nguyên nhân gây ra, cũng như vay nửa
cân trả tám lạng. Thí dụ như trường hợp người nhạc sư bị mù mắt. Kiếp trước ông
ta đã lấy dùi sắt nhọn nướng đỏ chọc vào mắt kẻ tù binh; nhưng kiếp này ông ta
không có sinh vào làm dân của một bộ lạc dã man để rồi đến phiên ông bị bắt làm
tù binh của bộ lạc thù địch tàn bạo, dùng dùi sắt nướng đỏ chọc vào mắt ông ta.
Ông ta sinh ra đã bị mù lòa, và sinh trưởng trong một xã hội văn minh tân tiến
của thế kỷ hai mươi. Những sự việc xảy ra trong kiếp này của ông ta không hoàn
toàn đúng hẳn như trong kiếp trước.
Thí dụ trên và nhiều thí dụ khác cũng một loại, đã
đưa chúng tôi đến cái kết luận chung như sau: "Luật Nhân Quả là một định luật tâm
lý, nó hành động trước hết trên địa hạt tâm lý, những hoàn cảnh vật chất chỉ là
một phương tiện để đạt tới cái mục đích tâm lý đó mà thôi. Bởi đó, sự báo ứng của
nghiệp quả trên bình diện vật chất không hẳn phải là thật đúng khớp và ăn rập
theo khuôn mẫu với cái nguyên nhân đã gây ra từ trước, mà chỉ là đúng một cách
phỏng chừng. Trên bình diện tâm lý, nghiệp quả báo ứng mới thật đúng khớp hơn,
và đầy đủ trọn vẹn hơn". Một nguyên tắc đại cương khác dường
như căn cứ trên vấn đề khí cụ của nghiệp quả. Trong các tập hồ sơ Cayce, người
ta không hề thấy có trường hợp nào mà sự đau khổ trong kiếp hiện tại lại gây ra
bởi một nạn nhân cũ của đương sự trong kiếp trước, và đã gặp lại y trong kiếp
này. Trong trường hợp của vị nhạc sư mù từ lúc mới sinh: Không có điều gì chỉ rằng
cha mẹ ông ta vốn là những nạn nhân cũ trong kiếp trước, nay đầu thai lại để hành
phạt ông ta. Cô thiếu nữ làm nghề sửa móng tay bị bịnh liệt bại hai chân từ thuở
nhỏ không phải là bị trả thù bởi những nạn nhân cũ của cô trước kia ở châu
Atlantide.
Nói tóm lại, quả báo xảy đến thường là không phải do
chính nạn nhân cũ của đương sự gây ra, mà có thể do những người khác, những người
này chỉ là những khí cụ của nghiệp quả, cũng chẳng khác nào như những người tay
sai đi đòi nợ, để cho y trả những món nợ cũ. Và những người "Tay sai"
này cũng chỉ hành động một cách vô ý thức, chứ không hề biết gì cả về cái vai trò "Thiên
Lôi" hay "Hung Thần" của mình, tức là cái vai trò làm khí cụ của
nghiệp quả.
CHƯƠNG 5
QUẢ BÁO CỦA SỰ CHẾ NHẠO
Theo giáo lý Gia Tô, thì tánh kiêu ngạo là một trong bảy điều tội lớn nhất
của con người. Cũng như những tính điều khác trong đạo Gia Tô điều này rất lý
thú, nhưng dường như hơi cách xa những vấn đề thật tế về sự đau khổ của nhân loại. Tuy nhiên, chúng
ta chấp nhận những bằng chứng trong cuộc soi kiếp của ông Cayce, thì sự kiêu ngạo
có thể tạo nên nghiệp quả đau đớn xác thân, nhất là khi nó biểu lộ bằng sự chế
diễu hay sự khinh bỉ. Một cái cười độc ác hay những lời dèm pha, chỉ trích, chê
bai dường như gây một cái nhân tương đương với một hành động bạo tàn, và sẽ
mang đến cái quả báo dội ngược: Người chế nhạo sẽ bị một thứ bịnh tật, tai
ương, đau khổ giống như của người bị y chế diễu! Những hồ sơ Cayce có ghi chép
bảy trường hợp mà những bệnh tật đau khổ nặng nề có thể truy nguyên ra từ những
hành động chế nhạo kể trên. Có điều hơi lạ, là sáu trường hợp trong số đó xảy
ra trước hết ở La Mã, trong thời kỳ khủng bố đạo Gia Tô. Về điểm này một lần nữa,
chúng ta lại thấy những nhóm linh hồn thuộc về một thời kỳ lịch sử, tái sinh trở
lại cõi trần đồng một lượt ở một thời kỳ khác. Trong số đó có ba trường hợp về
bịnh bại liệt.
Trường hợp thứ nhất là của một người đàn bà bốn mươi
lăm tuổi, có ba người con; chồng bà ấy làm một nghề tự do. Năm ba mươi sáu tuổi
bà bị bại liệt cả hai chân và không thể đi đứng vận động gì được. Từ khi đó, bà
vẫn ngồi trên một chiếc xe lăn và phải có người đỡ mỗi khi muốn cử động. Cuộc
soi kiếp cho biết nguyên nhân bịnh trạng của bà là một tiền kiếp dưới thời Đế
Quốc La Mã. Hồi đó bà là một người trong dòng dõi quý tộc của triều đại vua
Néron và trực tiếp tham gia khủng bố những người theo đạo Gia Tô. Cuộc soi kiếp
nói: "Linh hồn này đã cười khi thấy những người bị hành hình trong vũ trường,
và bây giời y phải chịu cảnh đau khổ tương tự như của những người ấy!"
Trường hợp thứ hai, có lẽ là trường hợp đau khổ nhất
trong tập hồ sơ Cayce, là của một người đàn bà ba mươi bốn tuổi, bị bệnh bại liệt
từ lúc sáu tuổi, làm cho bà bị què chân và xiêu vẹo xương sống. Người cha chẳng
những rất thản nhiên với bịnh trạng của bà, mà còn lấy hết tiền bạc của bà dành
dụm được nhờ nuôi gà vịt kiếm lời. Số phận của bà càng hẩm hiu hơn nữa vì hai
cuộc tình duyên đau khổ. Người yêu đầu tiên bị tử trận trong cuộc Thế Chiến Thứ
Nhất. Sau đó bà đính hôn với một người đàn ông khác, nhưng người này bị đau nặng
và vừa khi khỏi bịnh xong thì liền cưới ngay cô nữ y tá đã săn sóc y trong nhà
thương! Ngoài ra những đau khổ về thể xác và tình cảm trên đây, còn thêm vào là
đời sống cô độc ở quê, và một lần té ngã trên những bực thang bằng đá, làm cho
bà phải nằm liệt giường và bị thêm một tật khác ở xương sống: Người ta không thể
tưởng một cuộc đời đau khổ hơn nữa! Nguyên nhân của bệnh trạng này thuộc hai kiếp
về trước ở đế quốc La Mã. Cuộc soi kiếp nói: "Linh hồn này thuộc về giòng
dõi nhà vua Palatius, và thường đến vũ trường xem những cuộc đấu võ giữa hai tội
nhân, hoặc giữa một tội nân với một thú dữ. Sự đau khổ hiện thời một phần lớn
là vì bởi y đã cười cợt một cách khinh bỉ trước sự yếu đuối bất lực của những kẻ
tù nhân bị thú dữ xé xác trong vũ trường!"
Trường hợp thứ ba là của một nhà sản xuất phim ảnh,
bị chứng liệt bại từ khi lên mười bảy tuổi, và hiện thời hãy còn có tật ở chân.
Nguyên nhân cũng là vào thời kỳ chống đạo Gia Tô ở đế quốc La Mã. Cuộc soi kiếp
cho biết: "Linh hồn này thuở xưa làm lính đao phủ quân của nhà vua, và đã
cười cợt chế nhạo những kẻ tỏ dấu sợ sệt hoặc những người bị ngã quị trong võ
trường dưới ngọn đao hành tội của y. Y đã gây ác quả không phải vì y làm phận sự
của người đao phủ, mà vì y đã khinh bỉ chế nhạo những người theo một lý tưởng
tôn giáo. Trong kiếp này, một xác thể tàn tật đem cho y cái kinh nghiệm cần thiết
để làm thức động Chân Tánh và phát triển những sức mạnh tâm linh tiềm tàng của y".
Dưới đây là bốn trường hợp lý thú mà sự chế nhạo lại
bị những quả báo khác hơn là bịnh liệt bại. Một là trường hợp của một thiếu nữ
bị chứng lao xương háng. Trong kiếp trước đây, cô có mặt trong nhóm người đầu
tiên đến khai thác thuộc địa ở Bắc Mỹ. Tuy nhiên, bịnh trạng của cô được truy
nguyên ra ở một kiếp trước nữa ở La Mã. Hồi đó, cô thuộc giồng quý tộc dưới triều
vua Néron, và hay mua vui bằng cách đến xem những cảnh hành tội người Gia Tô
Giáo trong các vũ trường. Cảnh tượng một thiếu phụ bị móng vuốt sư tử cào rách
một bên hông đã làm cho đương sự vô cùng vui thích và cười đùa một cách khoái
trá!
Đây là một trường hợp khác: Một thiếu nữ kia mới mười
tám tuổi đáng lẽ ra có một vẻ đẹp quyến rũ, nếu cô không bị phát phì! Các bác
sĩ y khoa nói rằng đó là do bộ hạch óc làm việc quá độ. Cuộc khám bịnh bằng Thần
Nhãn của ông Cayce cũng xác nhận có sự sai lệch trong sự hoạt động của hạch và
phát phì của cô ta là một chứng bịnh về nhân quả. Hai kiếp trở về trước, cô là
một lực sĩ ở thành La Mã, có tiếng về khoa điền kinh và vẻ đẹp cân đối của thân
hình. Nhưng y hay chế nhạo những tay lực sĩ khác nặng cân hơn và thua kém y về
sự khéo léo lanh lẹ.
Trường hợp thứ ba là của một thanh niên hai mười mốt
tuổi, theo đạo Gia Tô. Cha mẹ y muốn cho y sau này trở nên một giáo sĩ; nhưng y
thấy rằng nghề ấy không đúng với sở thích của y. Y bèn từ chối không chịu nghe
theo. Tật xấu lớn nhất của y là tật đồng tình luyến ái (yêu bạn trai hay bạn
gái cùng đồng một nam tính hay nữ tính với mình: Homosexualité). Y bèn yêu cầu
ông Cayce soi kiếp, và được biết rằng trong một tiền kiếp dưới một triều vua ở
nước Pháp y là một họa sĩ chuyên môn về lối vẽ hoạt kê hài hước. Bằng một nét
bút chì sắc sảo và linh động, y hay vẽ những cảnh tượng luyến ái giữa những người
đồng tình với nhau để làm trò cười cho thiên hạ. Cuộc soi kiếp luận như sau:
"Anh chớ lên án kẻ khác nếu anh không muốn bị lên án. Anh cười người khác
bao nhiêu, anh sẽ phải bị người cười bấy nhiêu, và anh lên án kẻ khác về cái tật
nào, thì chính anh sẽ mắc phải cái tật đó!"
Trường hợp thứ tư là của một thiếu niên bị tai nạn
xe hơi hồi mười sáu tuổi, làm cho y bị đứt tiện ngang tủy xương sống. Các bác
sĩ chuyên môn nói rằng y sẽ không thể sống được, nhưng rốt cuộc y vẫn sống sót.
Y hoàn toàn bại liệt cả nửa thân mình, từ đốt xương sống thứ năm trở xuống và kể
từ khi đó y không hề rời khỏi chiếc xe lăn. Lúc y được 33 tuổi, 17 năm sau khi
tai nạn xảy ra, mẹ y yêu cầu ông Cayce soi kiếp cho y. Cuộc soi kiếp cho biết
rõ hai tiền kiếp: Một kiếp hồi thời kỳ Cách Mạng ở Bắc Mỹ, trong khi đó y phục
vụ trong quân đội và tỏ ra là một sĩ quan ưu tú và can đảm. Do kinh nghiệm
trong kiếp đó mà kiếp này y có được những đức tính kỷ luật, trật tự, yêu đời và
khả năng quyền biến. Trong kiếp trước nữa ở La Mã vào lúc bắt đầu Tây lịch kỷ
nguyên, y đã tạo ra cái nguyên nhân của thảm trạng hiện tại. Hồi đó y là một
người lính trong đạo binh La Mã và lấy làm khoái trá mà nhìn thấy những sự đau
khổ của những người theo đạo Gia Tô bị hành hình ở pháp trường. Y đã từng đấu sức
trong vũ trường, và về sau y nhìn xem những kẻ địch thủ của y đối chọi với các
thú dữ. Y đã nhìn thấy rất nhiều cảnh tượng tàn ác, gây sự đau khổ chết chóc,
nhưng y không chút động lòng. Kết quả là trong kiếp này y nhìn thấy sự đau khổ ở
chính mình, và y cũng phải tập nhìn nó một cách thản nhiên nhưng với một mục
đích khác hẳn: Quả báo này có cái tác dụng sâu xa là nhờ sự đau khổ, y sẽ cảm
thấy rằng sự tín ngưỡng tôn giáo mà y diễu cợt nhạo báng trước kia, nay đã đột
khởi ở trong linh hồn y để bù lại những gì y đã tạo ở kiếp trước.
Có điều lý thú là trong những trường hợp kể trên, gồm
có ba người bị liệt bại từ nhỏ, một người bị bịnh lao xương háng, một người
phát phì, một người có tật đồng tính luyến ái, một người dập tủy xương sống, tất
cả là bảy người nhưng không có trường hợp nào là bịnh di truyền. Trong mỗi trường
hợp, bịnh trạng chỉ xuất hiện sau khi đương sự đã sinh ra đời, ở vào khoảng giữa
năm lên một và năm lên 36 tuổi. Trong một trường hợp, bịnh tật do tai nạn xe
hơi gây nên, Dầu rằng thế nào, đằng sau cái nguyên nhân hiển hiện, còn ẩn khuất
một nguyên nhân sâu xa hơn. Cái định mệnh lạ lùng nó đặt để rằng trong một tai
nạn xe cộ, có người thiệt mạng, có người lại sống sót, có người bị thương tích
nặng nề, có người lại không bị một vết trầy da, thường được coi như một sự may
rủi, tình cờ. Nhưng nếu ta xét những trường hợp kể trên thì thấy rằng dường như
có sự hành động của một bàn tay vô hình, dầu rằng trong sự hỗn loạn của một tai
nạn xảy ra bất thình lình, và như thế những quả báo xảy đến đều đúng luật công
bình, không mảy may sơ sót.
Mới nghe qua những trường hợp kể trên, người ta thấy
rằng dường như những quả báo xảy đến có vẻ quá nặng nề đối với một việc không
quan trọng như là một tiếng cười, nhưng nếu chúng ta suy xét kỹ thì sẽ thấy quả
có sự công bằng.
Một người đùa cợt nhạo báng trước sự đau khổ của kẻ
khác tức là y kết án người này về những hoàn cảnh trái ngược của họ mà y không
hề hiểu biết được cái lý do ẩn tàng. Y khinh bỉ cái quyền tự do của người khác,
dầu cho đó là cái tự do lỗi lầm mà mỗi người đều có thể rút những bài học kinh
nghiệm lấy cho mình. Y chà đạp, dày xéo cái nhân vị, cái giá trị và tính cách
thiêng liêng của mỗi linh hồn, dầu rằng linh hồn ấy có rơi vào sự đớn hèn, sa đọa
hay lố bịch chăng nữa. Ngoài ra, y còn tự tôn và cho rằng mình cao hơn kẻ mà y
chế diễu đùa cợt. Trong sự chế diễu đùa cợt, có một hình thức tự tôn rất bỉ ổi
làm cho đương sự cách biệt rất xa với tình bác ái đại đồng giữa nhân loại và vạn
vật. Những điều kể trên làm cho ta phải nhớ đến những giáo lý răn dạy người đời,
được chứa đựng trong một quyển sách về đạo lý cổ truyền. Chúng ta bắt đầu nhận
thấy rằng thật là hữu phước thay cho người nào thoát khỏi được cái thói xấu hay
nhạo báng đùa cợt. Tác giả bộ Thánh Thi đã tỏ ra có một bản năng sáng suốt khi người
thốt ra những lời này: "Tôi sẽ thắng dây cương ở đôi môi của tôi để khỏi
phải gây tội lỗi vì cái lưỡi."
"Ngươi chớ xét đoán kẻ khác nếu ngươi không muốn
bị người xét đoán! Vì ngươi sẽ bị kết án cũng như ngươi đã kết án kẻ khác vậy."
Đức Jesus cũng nói rằng: "Kẻ nào mắng người
khác là "Đồ ngu!" sẽ bị thiêu đốt dưới ngọn lửa Địa ngục!"
Xét về những trường hợp mà sự chế nhạo đùa cợt bị
mang lấy quả báo vô cùng thảm khốc như đã kể trên, thì lời nói của đức Jesus hẳn
là có một ý nghĩa sâu xa thâm trầm về phương diện tâm lý vậy.
CHƯƠNG 6
VÀI CẢM TƯỞNG VỀ LUẬT
QUẢ BÁO
Những tập hồ sơ
Cayce trình bày cho ta thấy biết bao nhiêu những sự đau khổ của người đời, có
thể phân tách ra từng nhiều loại, đau khổ bệnh tật về thể xác lẫn cả về tinh thần.
Những hồ sơ đó làm nổi bật những khía cạnh trừng phạt của Luật Nhân Quả, bởi vì
những người đến nhờ ông Cayce giúp đỡ, trước hết là những người đau khổ về bịnh
tật. Một người đầy đủ sức khỏe không có lý do đến viếng một bác sĩ; và một người
sung sướng ít khi thấy cần phải tìm hiểu về mục đích rốt ráo và ý nghĩa của cuộc
đời. Chính vì đó mà phần lớn những cuộc khám nghiệm bằng Thần Nhãn của ông
Cayce được thực hiện cho những người bị thắc mắc đau khổ về những bịnh tật khó
khăn, hoặc có khi là những sự đau khổ tinh thần rất lớn, mà không có một vị y
sĩ, một nhà tâm lý, hay một vị mục sư nào có thể tìm ra cách giải quyết.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã thấy giá trị của
sự đau khổ trên phương diện luân lý và tinh thần; nhờ thấy rõ lý do và nguyên
nhân sự đau khổ, nên nó không còn là một điều khủng khiếp và rùng rợn đối với
chúng ta. Trái lại, những cuộc soi kiếp đó đã khuyến khích, an ủi, giúp nguồn cảm
hứng và xoa dịu những tâm hồn đau khổ một cách sâu xa thâm trầm. Tuy nhiên, một
tập hồ sơ thâm trầm của Cayce không phải chỉ gồm có những trường hợp chữa bịnh
và giúp đỡ những kẻ bịnh tật khốn khó mà thôi. Trong những chương sau, chúng ta
sẽ thấy sự hành động của Luật Nhân Quả trong việc đào tạo khả năng, đức tính, thiên
tài, và những bẩm tính cùng tư chất đủ mọi loại trong con người, làm căn bản
cho sự khám phá ra những tài năng ẩn tàng cùng là vấn đề hướng nghiệp, ngõ hầu
giúp cho thiên hạ tìm thấy con đường hành động của mình để có thể thành công ở
đời.
Một hoàn cảnh tốt và một thân thể kiện toàn là do những
nghiệp quả tốt đưa đến. Nhưng những cuộc soi kiếp thường không giải thích về
nguyên nhân của những quả báo tốt lành, vì người ta cho rằng không phải những
người được yên lành sung sướng, mà chỉ có những trường hợp đau khổ mới là đáng
được chú ý. Những người được soi kiếp cũng đồng quan niệm với cái khuynh hướng
chung của mọi người, là một số phận tốt lành hạnh phúc không cần phải giải
thích lý do; mọi người đều cho rằng mình có quyền được hưởng một số phận yên lành
tốt đẹp. Chỉ khi nào bị điêu linh khốn khổ, tai họa dập dồn, thì người ta mới bắt
đầu tự hỏi lại sao họ lại bị như thế!
Một thân hình tốt đẹp cũng là do nghiệp quả tốt gây
nên. Những cuộc soi kiếp thỉnh thoảng cũng cho biết rằng một thân hình cân đối
mỹ lệ trong kiếp này là kết quả của sự săn sóc giữ gìn thân thể trong kiếp trước.
Trong một cuộc soi kiếp, ông Cayce có đưa ra một trường hợp lý thú về sắc đẹp
do một lý do nghiệp quả khác hẳn. Đó là trường hợp của một người đàn bà là kiểu
mẫu đẹp có tiếng ở New York. Cô có hai bàn tay tuyệt đẹp, và được các hãng buôn
mời chụp ảnh làm kiểu mẫu để quảng cáo cho những món hàng trang sức như thuốc
nhuộm móng tay, dầu thơm, và đồ nữ trang. Quả báo tốt lành khiến cho cô có sắc
đẹp trong kiếp này được truy nguyên từ một kiếp trước trong một tu viện ở Anh
Quốc. Trong tu viện, cô dành trọn cuộc đời và dùng hai bàn tay để làm những
công việc hèn mọn và thấp thỏi nhất với một tinh thần phụng sự và hoàn toàn hiến
dâng. Cái chí nguyện tâm linh ấy đã đem đến cho cô trong kiếp nầy một thân hình
mỹ lệ với hai bàn tay đẹp đẽ khác thường. Đây là một triển vọng đáng khuyến
khích cho những ai mong muốn có sắc đẹp!
Những quả báo đau khổ xảy đến cho ta có lẽ gây cho
ta một ấn tượng sâu xa thấm thía hơn là những quả báo tốt lành, nhứt là nó lại
càng thấm thía hơn và cần thiết hơn ở vào thời buổi hỗn loạn và suy đồi hiện naỵ
Người thời nay trí khôn đã mở rộng, khoa học càng ngày càng phát triển, cuộc đời
tinh thần của họ cần căn cứ trên một nền tảng thông minh có thể làm thỏa mãn được
lý trí.
Một phép xử thế đúng đắn, hạp với lẽ Đạo là cần thiết
để đem đến cho con người một đời sống hạnh phúc, an vui và giải thoát. Người ta
sẽ nhận thấy tầm quan trọng lớn lao của điều này khi người ta hiểu rõ những định
luật Nhân Quả và Luân Hồi. Bởi đó, giáo lý Minh Triết cổ truyền đem đến cho ta
một phương thuốc bổ khỏe, thần hiệu để chữa khỏi chứng bịnh liệt nhược tinh thần
của nhiều giáo phái hiện naỵ Có lẽ những sự hành phạt đau khổ của luật quả báo
mà chúng tôi trình bày trong quyển sách này sẽ không làm nản lòng quá mức những
người nào chấp nhận định luật Luân Hồi; trái lại nó còn đem cho họ một niềm hy
vọng một sự yêu đời và một đức tin mới mẻ căn cứ trên sự tin tưởng ở định luật
công bình của Vũ Trụ, nó cai quản mọi sự trên thế gian.
Những thí dụ kể trên có lẽ sẽ làm cho chúng ta dè dặt
cẩn thận hơn trong những hoạt động và cử chỉ của đời sống hằng ngày. Khi chúng
ta biết rằng sự tàn nhẫn độc ác có thể gây nên quả báo đui mù tàn tật, bịnh mất
máu, bịnh xuyễn hay bịnh liệt bại; sự hoang dâm có thể gây nên chứng bịnh động
kinh (épilepsie); sự áp chế đè nén kẻ khác có thể đem đến bịnh liệt bại; thì những
điều đó có thể làm cho chúng ta dễ quay đều hướng thiện và cố gắng sống một đời
sống tốt lành. Ngoài ra, những trường hợp kể trên đem đến sự giải thích về tình
trạng thê thảm của hằng triệu người đau khổ về bịnh tật trên thế gian. Chúng ta
không thấy những kẻ tật nguyền, què quặt, đui mù, câm điếc, điên khùng, những
người bị các chứng bịnh nan y, liệt bại, động kinh cùi phong, những người cụt
tay, cụt chân vì tai nạn hay chiến tranh... Những người xấu số đáng thương ấy,
chúng ta không nhìn thấy vì họ ở ẩn trú trong nhà, hoặc nằm trong các bịnh viện.
Chúng ta chỉ tình cờ gặp họ một đôi khi ở ngoài đường phố, và không biết rõ tổng
số những người bịnh tật đau khổ ấy lên đến bao nhiêu!
Nhưng họ gồm một thành phần rất đông đảo, và số phận
của họ rất thảm thương. Sự giải thích thông thường của những giáo sĩ đạo Gia Tô
về những thảm trạng đau thương ấy là: "Đó là ý muốn của Chúa Trời!"
Nhưng thật khó mà dung hòa cái ý niệm một đấng Cha Lành đầy lòng từ bi bác ái
mà lại tạo ra những cảnh đau khổ lầm than đó cho những đứa con vô tội của Ngài.
Về điểm này, người ta lại nói rằng ý muốn của Chúa Trời là một điều bất khả tư
nghị, không thể cân nhắc đo lường, và không thể hiểu được! Nhưng rốt cuộc câu ấy
vẫn không giải quyết được sự mâu thuẫn nói trên.
Thuyết Luân Hồi đã đưa ra sự giải thích cho vấn đề
bí hiểm đó bằng cách chỉ rằng sự vật diễn ra trong vũ trụ không bao giờ do sự
ngẫu nhiên tình cờ, mà là do sự hành động của một định luật thiên nhiên rất
công bình và hợp lý. Đó là một định luật căn bản trong Trời Đất, theo đó thì những
người đau khổ bịnh tật vốn là do những nguyên nhân của họ đã gây ra trong quá
khứ, và bây giờ họ phải gánh lấy hậu quả; không một ai có thể bị những cảnh lầm
than khốn đốn nếu đó không phải là do những nguyên nhân xa gần mà họ đã tạo nên
trong những kiếp quá khứ. Người Tây phương không thể chấp nhận quan niệm về
Luân Hồi một cách dễ dàng vì nó khó tin và không thể đem ra thí nghiệm một cách
khoa học, hoặc không có gì làm bằng chứng.
Tuy nhiên, trong đời có biết bao nhiêu những chuyện
khó tin mà chúng ta không hề nghĩ đến! Từ một cái trứng bé nhỏ chui ra một con
nòng nọc, nó lội nước như một con cá, rồi lớn dần và rụng đuôi để trở thành con
cóc. Một con sâu kết một kén bằng tơ và sau đó ít lâu nó từ trong cái kén chui
ra và trở thành một con bướm màu mè sặc sỡ. Đó chỉ là một vài thí dụ lạ lùng để
chỉ cho ta thấy rằng sự sống của một sinh vật có thể thay hình đổi dạng nhiều lần
liên tiếp mà vẫn không mất cái cá tính riêng của nó; và chúng ta chấp nhận điều
ấy một cách tự nhiên. Nếu ta suy nghĩ kỹ, có lẽ chúng ta sẽ thấy rằng những thí
dụ đó cũng không khác gì hơn là việc một linh hồn hóa kiếp qua những thể xác
khác nhau mà vẫn giữ nguyên vẹn cá tính của nó.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce mà ta có thể chấp
nhận được về phương diện tâm lý và luân lý đã giúp cho chúng ta giải tỏa được nhiều
sự hoài nghi. Những tài liệu lạ lùng đó là một bằng chứng để giúp cho chúng ta
có một tầm hiểu biết sâu xa hơn. Có lẽ nó giúp đỡ cho chúng ta thấy rằng ngoài
ra những kiếp sống tầm thường, bẩn chật, gò bó của chúng ta trên cái thế giới
nhỏ hẹp này, còn có một tầm sinh hoạt rộng lớn bao la hơn nữa, và cuộc đời còn
có một ý nghĩa sâu xa thâm trầm hơn những gì mà chúng ta đã có thể tưởng tượng
từ trước đến nay.
CHƯƠNG 7
QUẢ BÁO TREO
Một điều lạ lùng mà
người ta có thể nhận thấy trong những trường hợp quả báo về xác thân như chúng
tôi đã nêu trên, là có đôi khi những quả báo chỉ xuất hiện một hay nhiều kiếp
sau khi cái nhân được tạo ra. Người ta tự hỏi tại sao lại có sự đình chỉ đó, và
tại sao nghiệp quả không báo ứng ngay tức khắc như một quả banh dội lại ngay
sau khi được ném vào tường?
Dường như câu hỏi đó có nhiều cách giải đáp. Một là:
Linh hồn đã gây nhân tạo nghiệp, phải đợi đến khi có một hoàn cảnh và thời giờ
thuận tiện cho quả kia kết thành hình. Có khi phải đợi nhiều thế kỷ mới có một
cơ hội thuận tiện và trong khi chờ đợi, thì khoảng thời gian đó được sử dụng để
cải thiện cho tâm tính của đương sự. Người ta tìm thấy một thí dụ về loại quả
báo treo này trong những tập hồ sơ Cayce về những linh hồn trước kia đã sống ở
Châu Atlantide.
Khoa học chưa bao giờ có thể xác nhận hay hoàn toàn
phủ nhận sự hiện diện của Châu Atlantide vĩ đại và cổ xưa chìm dưới đáy biển Đại
Tây Dương, mặc dầu người ta có đủ lý do để tin ở sự kiện ấy trước những bằng chứng
lịch sử, khoa học và văn hóa. Một tài liệu lịch sử quan trọng là bộ sách
"Crisias Timeus" của Platon trong đó tác giả tường thuật những điều
ông đã nghe nói về Châu Atlantide. Một trong những bằng chứng khoa học thường
được nêu ra là sự khám phá của các nhà bác học, nhân dịp một sợi dây cáp (cable
sous marin) đặt ngầm dưới biển Đại Tây Dương bị đứt và chìm xuống đáy biển ở một
bề sâu 3.000 thước. Khi sợi dây cáp được vớt lên, thì nó quến theo những mẫu
phún thạch (lava). Khi người ta quan sát bằng kiếng hiển vi thì thấy rằng những
mẫu phún thạch này ngày xưa đã từng đông đặc lại trên đất liền, trước khi chìm
xuống đáy biển.
Trong những bằng chứng văn hóa đáng kể nhứt, thì trước
hết là những chuyện giai thoại về cuộc Đại Hồng Thủy. Người ta gặp chuyện những
giai thoại này không những trong bộ Thánh Kinh (Bible), mà còn trong những truyện
Thần Thoại tôn giáo và lịch sử của hầu hết tất cả những dân tộc cổ xưa trên thế
giới.
Kế đó là những điểm tương đồng giữa những ngôn ngữ,
văn tự và kiến trúc của Ai Cập và Trung Mỹ, ở vào một thời kỳ mà người ta không
thấy có những phương tiện giao thông giữa hai lục địa Mỹ Châu và Phi Châu.
Tất cả những bằng chứng kể trên có thể giúp cho người
ta tin tưởng nơi sự hiện diện của Châu Atlantide, nhưng vẫn chưa đủ để đưa đến
một kết luận chắc chắn. Dầu sao, nếu ta có phải tin nơi những cuộc soi kiếp của
ông Cayce, thì châu Atlantide đã từng có một cách hiển nhiên, không còn nghi ngờ
gì nữa. Theo ông Cayce một vài gian phòng bí mật hãy còn khóa chặt trong Kim Tự
Tháp lớn ở Ai Cập, một ngày kia sẽ có thể tiết lộ cho chúng ta một kho tài liệu
đầy đủ về lịch sử và nền văn minh của châu Atlantide. Ông Cayce cho biết rằng
những tài liệu đó được đem chôn giấu trong Kim Tự Tháp, do những người dân
Atlante ngày xưa di cư qua Ai Cập trong cuộc thiên tai địa chấn lần thứ ba và
cũng là lần cuối cùng đã nhận chìm châu Atlantide xuống đáy biển vào khoảng
9.500 năm trước Tây Lịch kỷ nguyên. Ông Cayce cũng có nói rằng đảo Bimini, ở
ngoài khơi tiểu bang Florida bên Hoa Kỳ, nguyên là đỉnh ngọn núi cao ở châu
Atlantide ngày xưa. Ông cũng cho biết rằng tại nơi đó, người ta có thể tìm thấy
dưới đáy biển một ngôi đền cổ của dân Atlante, mái bầu của ngôi đền được xây cất
với những tấm kiếng thủy tinh theo một kiểu kiến trúc đặc biệt để thâu ánh nắng
mặt trời. Những cuộc soi kiếp cho biết dân Atlante ngày xưa đã từng đạt tới một
trình độ khoa học tiến bộ hơn của chúng ta ngày naỵ Họ đã từng phát triển tới một
mực rất cao các nghành điện khí, vô tuyến điện, vô tuyến truyền hình, những
phương tiện di chuyển trên không trung, tàu ngầm, cùng phương pháp sử dụng mãnh
lực của Mặt Trời và nguyên tử lực. Họ đã từng phát minh những kỹ thuật dùng nhiệt
lực, thắp sáng, và chuyển vận tiến bộ hơn của chúng ta ngày nay.
Điều đáng ghi nhớ là những cuộc soi kiếp của ông
Cayce thường lặp đi lặp lại nhiều lần rằng dân Atlante ngày xưa bị họa diệt
vong vì họ đã lạm dụng những sức mạnh kinh khủng mà họ chế ngự được. Họ dùng điện
lực, khoa thôi miên và mãnh lực của tư tưởng để đàn áp, chế ngự kẻ khác, hoặc
sai khiến chúng làm việc một cách nô lệ, hoặc để cưỡng hiếp phụ nữ và thỏa lòng
háo sắc của họ Người ta sẽ hiểu rằng những sự lạm dụng quyền năng và những hành
vi trái Đạo kể trên không thể cứu chuộc được một cách đầy đủ và trọn vẹn trong
những thời kỳ mà khoa học chưa được phát triển, và người ta chưa có những kiến
thức sâu rộng về khoa tâm lý hoặc khoa Huyền Môn. Cuộc thử thách hữu hiệu nhứt
để biết xem một người đã thắng được thói ăn uống vô tiết độ hay chưa, là đặt
trước mặt y những món cao lương mỹ vị mà y ưa thích, để xem y có biết tự chủ
hay không. Người ta không thể biết được rằng một người đã hoàn toàn tự chủ về
đường sắc dục hay chưa, nếu y không gặp cơn thử thách: Bị cám dỗ mà vẫn không động
lòng như Thánh Antoine ngày xưa vẫn thanh tịnh giữa những giai nhân tuyệt sắc,
đáng yêu!
Cũng giống như thế, những linh hồn đã lạm dụng những
quyền năng phi thường và mầu nhiệm nhờ sự phát triển khoa học của châu
Atlantide thuở xưa, không chắc là đã từ bỏ thói ích kỷ tham tàn và cải tạo tâm
tính, nếu họ chưa gặp những hoàn cảnh tương tự của một thời kỳ phát triển khoa
học và kỹ thuật như thời đại này, để thử thách xem họ có biết dùng những phương
tiện đó với một tinh thần xây dựng, hay là với mục đích ích kỷ hại nhân như thuở
xưa kia.
Sự tiến bộ từng chu kỳ của Lịch sử đã làm cho thế kỷ
20 trở nên thời kỳ phát triển khoa học kể trên; bởi đó những cuộc soi kiếp của
ông Cayce tiết lộ cho biết rằng có rất nhiều dân Atlantide thời cổ nay đã đầu
thai chuyển kiếp vào thời kỳ hiện tại. Những sự tiến bộ về khoa học và kỹ thuật
có thể hiểu được bằng hai cách: Trước hết, đó là do kết quả của những kinh nghiệm
về mọi phát minh khoa học mà những linh hồn mới đầu thai đã mang lại từ những
kiếp quá khứ của châu Atlantide ngày xưa; thứ hai, thời kỳ này là giai đoạn thử
thách cho những linh hồn đó để xem trong những thế kỷ trung gian, họ đã thâu thập
được những đức tính gì khả dĩ giúp cho họ chống chỏi lại sự cám dỗ do thói ích
kỷ và tàn bạo của thế hệ văn minh khoa học vật chất đưa đến. Bởi đó, cái yếu tố
căn bản nó quyết định vấn đề "Quả báo treo" dường như là những linh hồn
đã gây nghiệp quả xấu phải chờ đầu thai vào một thời kỳ thuận tiện, có một nền
văn minh tiến bộ thích nghi. Vấn đề này hình như cũng có liên quan đến sự tiến
bộ từng chu kỳ của lịch sử, và việc luân phiên của những nhóm linh hồn trong việc
chọn lựa những thời kỳ đầu thai chuyển kiếp xuống Trần.
Những trào lưu chủng tộc và các sắc dân trên Địa Cầu
cũng đầu thai trở lại thế gian theo từng đợt hay từng nhóm, cũng ví như những
luồng sóng dập dồn từng thời kỳ, theo định luật Tuần Hoàn của vũ trụ. Tuy
nhiên, có nhiều đoạn trong các cuộc soi kiếp của ông Cayce chỉ rằng sự chuyển
kiếp của những nhóm thiểu số trong những luồng sóng lớn đó, và thậm chí sự đầu
thai của từng cá nhân trong những nhóm ấy, có thể không phải là do tiền định một
cách chặt chẽ và máy móc theo từng chu kỳ nhất định. Những linh hồn và từng
nhóm linh hồn không phải tái sinh trở lại một cách đều đặn như một việc đã định
sẵn. Về điểm này, cũng như trên những lãnh vực khác của Cơ Trời máy Tạo, con
người vốn có quyền tự do ý chí, và một cá nhân hay một nhóm người đều có quyền
tự do chọn lựa những thời kỳ đầu thai tùy theo ý muốn.
Điều này lại đưa đến một sự phức tạp mới nữa: Nếu một
linh hồn cần phát triển một đức tính trong những giao tế của y với một linh hồn
hay một nhóm linh hồn khác, có lẽ y sẽ cần trì hoãn sự đầu thai của y trong một
thời gian để đợi đến một thời kỳ được chọn lựa cho sự đầu thai chung của những
linh hồn ấy. Và nếu đó là một sự trì hưỡn lâu dài, thì trong khi chờ đợi, linh
hồn ấy có thể dùng thời gian để cố gắng phát triển một vài đức tính mới, hoặc một
khía cạnh mới nào đó về sự tiến hóa của y, và bởi đó mới có cái hiện tượng
"Quả báo treo."
Những sự kiện kể trên nhắm vào những yếu tố bên
ngoài của quả báo treo; nhưng ngoài ra còn có những yếu tố bên trong. Một sự kiện
tâm lý sau đây còn có một tầm quan trọng tương đương, nếu không nói là lớn hơn;
đó là sức mạnh tinh thần cần thiết để chịu đựng những quả báo xảy đến. Linh hồn
phải trả quả cần có cơ hội thâu thập những đức tính cần thiết để đương đầu với
quả báo khi nó xảy đến; chứ nếu không thì quả báo nặng nề quá sức chịu đựng còn
thể làm cho đương sự bị đè bẹp, thay vì giúp ích cho sự tiến hóa của y.
Nhiều người bịnh tật khi được ông Cayce soi kiếp và
được cho biết rằng nguồn gốc bịnh trạng của họ được truy nguyên ra từ nhiều kiếp
trở về trước, đều lấy làm tò mò muốn biết lý do của sự trì hoãn lâu dài như thế.
Những người muốn làm sáng tỏ vấn đề này bằng một cuộc soi kiếp thứ nhì, đều nhận
được câu trả lời giống như của cô thiếu nữ què mà chúng tôi đã kể chuyện trong
Chương Năm. Cô này hỏi: "Tại sao linh hồn lại đợi cho đến kiếp này mới trả
xong nghiệp quả đã gây ra từ thời Đế Quốc La Mã?" Cô ấy được trả lời như
sau: "Bởi vì linh hồn ấy không đủ sức trả quả sớm hơn."
Câu chuyện ấy chỉ rõ rằng nếu một linh hồn không đủ
sức trả quả sớm hơn, đó là vì bởi một lý do bên trong hơn là lý do bên ngoài.
Trong trường hợp đó, cũng như những trường hợp bệnh tật khác, một sự nghiên cứu
tỉ mỉ về những kiếp trung gian chỉ rằng những kiếp này là những kinh nghiệm cần
thiết để giúp cho đương sự có cơ hội thu thập thêm một vài đức tính tốt và để
tiến hóa thêm.
Thí dụ, nếu chúng ta xét lại trường hợp của người
thiếu niên 16 tuổi, bị thương nặng trong vụ tai nạn xe hơi như đã kể trên,
chúng ta thấy rằng nguyên nhân của nghiệp quả này là do y đã gieo trong thời kỳ
đế quốc La Mã. Tuy nhiên, một kiếp đầu thai vào thời kỳ Cách Mạng ở Bắc Mỹ đã
giúp cho họ có cơ hội phát triển một vài đức tính như can đảm, yêu đời, và khả
năng khai thác khía cạnh tốt của mọi hoàn cảnh. Những đức tính đó là những điều
mà y cần dùng để chịu đựng cảnh khổ trong kiếp hiện tại, khi quả đã chín mùi và
đến kỳ phải trả.
Một thí dụ sau đây có thể giúp cho chúng ta hiểu rõ
hơn về vấn đề này: Một người kia vay năm triệu đồng của ngân hàng để kinh doanh
sự nghiệp. Y không thể nào trả hết số tiền đó trong vài ngày hay một tuần lễ,
hoặc một tháng sau. Vì lẽ đó, y xin hẹn đến một kỳ hạn nào đó, thí dụ là ba năm
để cho y có thời giờ dành dụm lần hồi cho đủ số trước khi trả dứt làm một lần.
Ngân hàng không thể bắt y phải trả dứt trong một tuần lễ, vì lẽ tất nhiên là y
không đủ sức trả gấp, và đòi nợ một cách gắt gao như thế thật là không có ích
gì. Có thể rằng trên địa hạt tâm linh, sự trì hoãn thời kỳ phải trả quả, gọi là
quả báo treo, cũng diễn ra với một tinh thần đó.
Nếu một ngày kia thuyết Luân Hồi được một số đông
người thừa nhận và nếu quan niệm về Nhân Quả được quần chúng Phương Tây cũng
như Đông Phương hiểu rõ, ít nhất trên nguyên tắc đại cương, thì vấn đề quả báo
treo có lẽ sẽ trở nên một đầu đề lo sợ cho rất nhiều người! Cái ý tưởng rằng một
hành động hung dữ độc ác trong quá khứ có thể bị quả báo đui mù, tàn tật trong
một kiếp tương lai xa hay gần, làm cho người ta cảm thấy băn khoăn lo sợ. Đối với
những người nhậy cảm và nhiều tưởng tượng, thì một món nợ nhân quả mà họ không
được biết rõ cũng ví như một lưỡi gươm của Damoclès treo lủng lẳng trên xà nhà
và chực rơi xuống đầu họ bất cứ lúc nào. Quả báo treo có thể trở nên một sự đe
dọa khủng khiếp rùng rợn trong những năm đầu của thế hệ phổ biến về thuyết Luân
Hồi, cũng như Quỷ Satan và lửa Hỏa ngục đã từng là một mối đe dọa sợ hãi cho
người đời trong thế hệ đã qua!
Để chống lại khuynh hướng sợ sệt đó những nhà lãnh đạo
các phái Tư Tưởng Mới có thể đi đến việc phủ nhận toàn bộ vấn đề quả báo treo,
cũng như phong trào Khoa Học Công Giáo (Science Chrétenne) phủ nhận tội lỗi, bịnh
tật, sự chết, sự lầm lạc và cõi vật chất. Những sự phủ nhận đó có một sức dẫn dụ
rất mạnh và có thể đưa đến những kết quả khá lành mạnh về đường tâm linh. Tuy
nhiên, phủ nhận vật chất, thế gian, tội lỗi và quả báo, không có nghĩa là giải
quyết được vấn đề! Bổn phận của chúng ta không phải là dấu diếm sự thật, cũng
như con chim đà điểu vùi đầu xuống đống cát; mà là thắng đoạt, chế ngự và tổ chức
lại cõi đời vật chất theo những lý tưởng tâm linh cao cả. Phủ nhận Luật Quả Báo
chẳng khác nào như không nhìn nhận những món nợ mà mình phải trả, và những bài
học mà mình phải học hỏi, và đó là một thái độ bất lương. Kẻ nào muốn gạt gẫm
hay trốn tránh trách nhiệm, dầu đó là những trách nhiệm vật chất hay tinh thần,
không thể gây cho người khác lòng mến phục.
Thói thường, khi người ta không thích một điều gì,
người ta hay lý luận một cách khôn khéo để phủ nhận điều ấy. Đó cũng là một sự
tìm cách trốn tránh trách nhiệm. Nhưng chúng tôi không muốn nói rằng sự dẫn dụ
(suggestion) là vô ích. Trái lại, sự dẫn dụ có thể rất hữu ích để chữa những bịnh
trạng thuộc về tâm lý. Chúng ta đã thấy trường hợp lý thú của một trẻ em bị chứng
bệnh đái dầm và phương pháp dẫn dụ để đánh tan ý thức về tội lỗi in sâu trong
tiềm thức, đã chữa cho em ấy được khỏi bịnh.
Nếu những nhà chữa bịnh tinh thần muốn chữa các chứng
bịnh về nhân quả, thì phương pháp điều trị là làm cho bịnh nhân thành thực nhìn
nhận những tội lỗi cũ; bày tỏ một ý muốn chân thành cứu chuộc những tội lỗi và
sau cùng, tỏ ra một sự cương quyết làm việc phải và hướng thiện theo đường lối
ngược chiều với tội lỗi đã gây ra. Như vậy, các quả báo sẽ lần lần tiêu tan, và
bịnh sẽ thuyên giảm.
Nếu chúng ta chấp nhận thuyết Luân Hồi, thì ta phải
nhìn nhận rằng nhân loại chưa được tiến hóa cao về phương diện tâm linh, và bởi
đó con người phải chịu quả báo xấu xa trong những kiếp tương lai. Nhưng điều đó
không làm cho ta quá băn khoăn lo sợ, vì hai lý do:
Một là: "Mỗi ngày chỉ chịu đựng vừa đủ sự khổ
nhọc của nó!" (A chaque jour suffit sa peinẹ) Câu tục ngữ này có nghĩa là:
Ta nên sống mỗi ngày một cách bình tĩnh và không nên quá băn khoăn lo lắng. Chẳng
những thế, mỗi kiếp sống cũng vậy; dầu cho ta có bị những khó khăn đau khổ như
thế nào, ta cũng phải sống trọn kiếp của mình với một niềm tin tưởng chắc chắn
rằng số phận của mỗi người là rất công bình, và ta có đủ sức chịu đựng mọi điều
xảy đến. Không bao giờ ta phải trả một quả báo nào mà ta không đủ sức chịu đựng.
Hai là: Dầu cho ta có tin ở Luật Nhân Quả hay không,
ta cũng phải thấy rằng tương lai là một cái gì mà ta không thể biết một cách chắc
chắn. Và ta biết rằng những tai họa xảy đến cho ta là do lẽ nhân quả báo ứng chớ
không phải do sự ngẫu nhiên tình cờ, thì những nỗi băn khoăn sợ sệt của chúng
ta cũng sẽ giảm bớt, vì lý do giản dị là quả báo xảy đến chỉ do một định luật
Công Bằng. Con người thường hay sợ sệt những tai họa sẽ đến, nhưng nếu một sự
việc xảy đến một cách công bình, để cho ta học một bài học hay và mở rộng tầm
kiến thức của mình thì đó không phải là một điều đáng sợ. Một người lương thiện
nếu mắc nợ thì lo trả; y làm việc một cách siêng năng chăm chỉ để trả góp đúng
kỳ hạn vào đầu tháng. Y không phải lúc nào cũng lo lắng sợ sệt cái ngày trả nợ
sẽ đến. Y đem hết tinh thần, sức lực, cố gắng làm việc để có thể trả dứt nợ nần.
Vì bởi tầm ý thức của chúng ta có giới hạn, nên
chúng ta không biết được rằng mình đã mắc phải bao nhiêu món nợ quả báo trong
thời kỳ dĩ vãng xa xăm. Nhưng chúng ta nên có cái thái độ thẳng thắn của một
người lương thiện, để chấp nhận những món nợ của chúng ta với một sự thiện chí
và thành thật muốn trả nợ.
Sự chấp nhận định luật Nhân Quả và đức tin nơi một sự
Công Bằng Thiêng Liêng, phải là cái thái độ của chúng ta đối với mọi quả báo xảy
đến. Trong một Vũ Trụ công bằng, trật tự và tốt lành, mà định luật Luân Hồi đã
tiết lộ cho chúng ta thấy, thì tuyệt nhiên ta không có gì cần phải sợ sệt hết cả.
CHƯƠNG 8
QUẢ BÁO ĐỐI VỚI SỨC
KHỎE
Có nhiều người tin
tưởng một cách sai lầm về Luật Nhân Quả. Họ nghĩ rằng theo luật ấy, mọi sự đều
có tiền định, và điều này làm cho họ có một thái độ thụ động, lười biếng, mất cả
chí tiến thủ, và việc gì cũng đổ thừa cho số mạng. Đó là trường hợp của người Ấn
Độ, mà sự tin tưởng của Luật Nhân Quả vốn ăn sâu dân tộc của họ đã từng nhiều
ngàn năm, làm cho phần đông có cái thái độ kể trên.
Trình độ sinh hoạt ở Ấn Độ nói chung vẫn ở vào một mực
rất thấp thỏi và bi đát. Tình trạng này phần lớn là do óc thụ động, thiếu tranh
đấu của người Ấn trong sự chấp nhận nghiệp quả và số mạng của họ.
Nếu chúng ta chấp nhận quan niệm về Nhân Quả, thì
thái độ của chúng ta đối với luật Quả Báo, cũng như đối với mọi định luật thiên
nhiên, phải là an phận và tin tưởng. Nhưng chúng ta không khỏi tự hỏi rằng
chúng ta nên chấp nhận sự kiềm tỏa của Luật Quả Báo và bằng lòng an phận đến một
giới hạn nào, và đến một mức độ nào? Vấn đề này được nêu ra trong những trường
hợp quả báo về xác thân gây nên những bệnh tật đau khổ cho xác thể.
Về vấn đề này, những cuộc soi kiếp của ông Cayce đều
rất lý thú vì nó đem đến sự giải đáp rõ ràng và chắc chắn cho những sự tranh luận
về thuyết Luân Hồi.
Những câu hỏi sau
đây đã được nêu ra:
Đối với những người
đau khổ vì một chứng bịnh quả báo, phải dùng phép điều trị như thế nào? Có hy vọng
chữa khỏi những chứng bịnh "Nhân quả" đó không? Mỗi cuộc soi kiếp
trong tập hồ sơ Cayce đều khuyên ra không nên có một thái độ quá thụ động trong
sự trả quả. Luôn luôn trong những cuộc soi kiếp, ông Cayce đều lặp đi lặp lại
câu này để nói với bịnh nhân:
"Đó là nghiệp quả của anh (hay chị). Và
bây giờ, đây là điều mà anh (hay chị) có thể làm để sửa đổi lại."
Trong những tập hồ sơ đó, có điều đáng chú ý là
trong tất cả mọi trường hợp về bịnh "Nhân quả," luôn luôn đều có những
lời khuyên về cách điều trị. Trong nhiều trường hợp về bịnh quả báo, cuộc soi
kiếp cho biết có hi vọng chữa khỏi. Trong những trường hợp mà nghiệp quả nặng nề
hơn, cuộc soi kiếp nói rõ rằng không nên hy vọng được hoàn toàn chữa khỏi,
nhưng bịnh có thể được thuyên giảm nhờ sự cố gắng; và kế đó là sự diễn tả
phương pháp điều trị.
Đây là một trường hợp lý thú của một người thợ điện,
34 tuổi, bị một chứng bịnh đau mắt có cườm rất nặng, không thể chữa khỏi. Trong
ba năm, y không làm việc gì được; y đã quá mù mắt để có thể đọc hay viết; và
khi y thử đi vài bước thì y thường bị vấp ngã. Y đã vào nằm nhiều bịnh viện,
trong khi đó vợ y làm công trong một cửa hàng lớn để nuôi gia đình và một đứa
con năm tuổi. Trong một cuộc khám nghiệm, y được cho biết là một chứng bịnh quả
báo, nhưng y không nên tuyệt vọng. Cuộc soi kiếp nói:
À! Chúng ta có cái thể xác ở đây. (Các cuộc soi kiếp
đều bắt đầu bằng một câu này, tuy giản dị mà lạ lùng, trước khi diễn tả căn bịnh
của đương sự). Theo chỗ chúng thấy thì bịnh trạng rất nặng, nhưng anh chớ tuyệt
vọng vì sự cứu chữa đã sắp đến.
Tiếp theo sau đó là sự diễn tả căn bịnh bằng những
danh từ Y học. Kế đó, ông Cayce nói về những mãnh lực hàn gắn tiềm tàng trong
thể xác của bịnh nhân; ông nói qua vài điều chỉ rằng nguyên do chứng bịnh này
là do quả báo gây ra. Tiếp theo đó là lời khuyên bịnh nhân hãy thay đổi tâm
tính, và dẹp bỏ mọi điều oán ghét, thù hận và mọi tư tưởng ác. Cuộc soi kiếp kết
thúc bằng một phương pháp điều trị tỉ mỉ từng chi tiết.
Độ một năm sau, chính người bịnh ấy viết thơ yêu cầu
ông Cayce dành cho một soi kiếp thứ nhì; y cho biết rằng y đã áp dụng cách điều
trị một cách đúng đắn và đã thấy khá. Sự thuyên giảm đó kéo dài được bốn tháng,
nhưng sau đó bịnh lại tái phát và sức khỏe bị giảm sút.
Dường như y chỉ áp dụng phép điều trị về phương diện
vật chất, mà không chú ý bao nhiêu đến phương diện tinh thần, vì cuộc soi kiếp
lần thứ hai đã cảnh cáo y một cách không úp mở như sau:
"À! Chúng ta có cái thể xác ở đây. Thể xác này,
chúng ta đã thấy trước đây không lâu. Chúng ta nhận thấy rằng thể xác này đã có
nhiều tiến bộ về vật chất, nhưng nó còn rất nhiều điều phải sửa chữa.
"Như đã nói ở trên, đây là một chứng bịnh quả
báo. Linh hồn này phải thay đổi thái độ đối với cuộc đời, đối với mọi hoàn cảnh
và đối với người đồng loại. Bịnh được thuyên giảm một phần nào, do sự áp dụng
những phương pháp điều trị về thể chất. Nhưng nếu linh hồn này lấy làm tự mãn,
và không chịu thay đổi thái độ về mặt tâm linh; nếu y vẫn còn nuôi lòng thù hận,
ích kỷ, độc ác bất công và ganh ghét; nếu y vẫn còn nuôi trong lòng những gì
trái ngược lại với đức kiên nhẫn, khoan dung, bác ái, thiện cảm, nhân từ, thì bịnh
trạng của y không thể nào có thể chữa khỏi.
"Linh hồn này còn muốn khỏi bịnh vì mục đích
gì?"
"Phải chăng là để thỏa mãn những dục vọng của
thể xác?"
"Hay là để làm tăng trưởng thêm lòng ích kỷ của
mình? Nếu như thế, thì tốt hơn là y hãy cứ ở nguyên tình trạng cũ của y bây giờ.
"Nếu linh hồn này có sự thay đổi bên trong về
thái độ và về đường tâm tính, nếu y biểu lộ sự thay đổi đó trong lời nói và
hành động, và nếu y áp dụng cách điều trị đúng như phương pháp đã nêu ra, thì bịnh
y sẽ có thể thuyên giảm.
"Nhưng trước hết cần phải có một sự thay đổi
tánh tình, tâm trạng và mục đích. Tất cả những cách điều trị máy móc mà anh đã
áp dụng chỉ có thể đem đến một sự khỏi bịnh hoàn toàn khi nào linh hồn anh và mục
đích của anh được tiếp nhận ân đức Thánh Linh. Ân huệ đó, anh muốn nhận lãnh
hay từ chối, là tùy ý anh. Chúng tôi không còn gì để xét thêm, trừ phi anh biết
tự sửa đổi. Chúng tôi đã chấm dứt cuộc khám bịnh ở nơi đây."
Người ta nhận thấy trong những đoạn kể trên đây, rằng
hy vọng được khỏi bịnh tùy thuộc nơi sự thay đổi trong tâm hồn và thái độ của bịnh
nhân đối với cuộc đời. Anh muốn khỏi bịnh với mục đích gì? Đó là một câu hỏi rõ
ràng với một giọng dò xét. Phải chăng là để thỏa mãn những dục vọng của xác thể?
Hay là để làm tăng trưởng lòng ích kỷ? Nếu như thế tốt hơn anh hãy ở vào tình
trạng cũ!
Trải qua trên 15.000 cuộc soi kiếp, ông Cayce không
một lần nào từ chối giúp đỡ ý kiến để cho một bịnh nhân tự điều trị lấy, dầu y
đã phạm tội lỗi xấu xa nặng nề như thế nào. Nhưng cũng như trong trường hợp kể
trên, ông thường nhấn mạnh rằng bịnh tật đau khổ có một mục đích giáo dục để bắt
buộc chúng ta quay về đường chính, và sự tội lỗi, tà vạy đã gây nên quả báo bịnh
tật cần phải được sửa đổi. Người bịnh cần phải cố gắng bằng đủ cách để cải thiện
tình trạng của mình; nhưng đồng thời y phải sửa đổi sự yếu kém bên trong tâm hồn.
Những sức mạnh hàn gắn thiên nhiên và những cách điều trị của khoa học hiện đại
có thể đem đến một sự thuyên giảm tạm thời, nhưng không thể chữa khỏi bịnh, nói
về khía cạnh tinh thần của Luật Quả Báo. Nói tóm lại, sự khỏi bịnh phải là do ở
khía cạnh tâm linh, nó phải đến từ bên trong, chứ nếu không, nó sẽ không được
lâu bền.
Trường hợp sau đây của một người mù, rút trong số hằng
trăm trường hợp mù lòa trong các tập hồ sơ Cayce, có thể tiêu biểu cho quan điểm
kể trên. Đây là biên bản cuộc khán nghiệm: "Đây cũng là một bịnh quả báo.
Sự áp dụng các lý tưởng đạo đức tâm linh trong cách xử thế hằng ngày đã đem đến
một sự thay đổi lớn trong cuộc đời của bệnh nhân. Tuy lúc đầu bịnh nhân vẫn
không thấy bớt, nhưng chúng tôi thấy rằng cặp mắt bịnh nhân đã lần lần thuyên
giảm khi y bắt đầu sửa đổi tâm tánh. Chúng tôi nhận thấy rằng sự cố gắng đầu
tiên phải là thuộc về địa hạt tinh thần và bịnh nhân phải cố gắng biểu lộ lòng
nhân từ trong những cử chỉ hằng ngày. Hãy tập lấy sự thiện cảm, tình thân hữu,
đức kiên nhẫn, dịu dàng, khoan dung, nhân hậu... "
Trong hai trường hợp kể trên, người ta thấy rằng cuộc
soi kiếp nhấn mạnh trước hết ở sự thay đổi tâm tính và cải tạo tinh thần, và đó
là điều kiện cốt yếu để sửa đổi nghiệp quả về xác thân. Nếu chúng ta nhớ rằng mục
đích của sự quả báo là giáo dục tâm linh, chúng ta sẽ hiểu rằng phương pháp điều
trị kể trên là lẽ tự nhiên vậy. Điều tội lỗi mà luật quả báo sửa đổi, không phải
là thứ "Tội lỗi" hiểu theo ý nghĩa dị đoan cổ xưa là làm trái ý hoặc
xúc phạm Quỷ Thần, cũng không phải theo ý nghĩa của các nhà Thần học, hay của nền
luân lý khiết bạch hồi thời Nữ hoàng Victoria. Đó là tội lỗi theo ý nghĩa tâm
lý, nó bao gồm tất cả những gì trái với định luật thiên nhiên.
Tội lỗi hiểu theo ý nghĩa đó vốn căn cứ trên lòng
ích kỷ, hay khuynh hướng chia rẽ người với ta, và tăng cường bản ngã đó có thể
khoác lấy nhiều hình thức. Nó có thể là sự tàn bạo đối với kẻ khác; hoặc sự lạm
dụng cơ thể của chính mình do bởi sự vô tiết độ hay sinh hoạt cẩu thả; hoặc nó
có thể là do sự kiêu căng, tự tôn tự đại. Những sự lỗi lầm đó sở dĩ có là do bởi
một điều lầm lạc chính đại, căn bản về nguồn gốc con người.
Vì con người vốn là tinh thần chứ không phải là xác
thể. Tội lỗi của con người là do bởi y quên đi cái chân lý căn bản đó và tưởng
rằng mình là cái thể xác. Y phải cố gắng loại trừ điều ảo vọng đó; và phương tiện
chắc chắn nhứt để đánh đổ điều hư vọng ấy không phải là phủ nhận thể xác một
cách tiêu cực, mà là một phương pháp tích cực tự hỗn hợp với tinh thần.
Về điểm này, những cuộc soi kiếp của ông Cayce và những
giáo lý thần bí khác gọi sự hỗn hợp tinh thần đó là Ân Phước, hay Ơn Trên. Người
ta thấy trong những trường hợp kể trên cũng như trong những trường hợp khác về
quả báo xác thân trong tập hồ sơ Cayce, rằng lời khuyên răn tối hậu để được khỏi
bịnh là bịnh nhân hãy cố gắng làm thế nào để được thấm nhuần Ơn Trên, hay lòng
Nhân Từ của đấng Christ. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã dùng những lời lẽ
và danh từ Gia Tô Giáo, bởi vì ông Cayce là người theo đạo Gia Tô. Trong lúc
bình thường, ý thức của ông đã thấm nhuần những từ ngữ và quan điểm Gia Tô, vì
vậy những lời nói do nơi tiềm thức của ông thốt ra trong giấc thôi miên đều phải
đi xuyên qua cái bức màn đó. Người ta có thể hiểu rằng nếu ông Cayce sinh trưởng
ở một xứ Phật giáo, thì có lẽ ông đã dùng những lời lẽ danh từ trong khuôn khổ
tôn giáo và văn hóa địa phương và có lẽ ông đã dùng những danh từ nhà Phật.
Nhưng cách biểu lộ tư tưởng của ông, dầu là dưới hình thức nào, cũng không có ảnh
hưởng gì đến công việc cứu khổ mà ông vẫn theo đuổi. Dưới đây là một thí dụ về
sự khuyên răn của ông cho một người bị chứng bịnh lao tủy xương sống: "Anh
hãy nhớ rằng nguồn gốc bịnh trạng của anh là tự anh gây ra: Nó là một chứng bịnh
quả báo. Phương diện tốt nhứt là anh hãy cầu nguyện Ơn Trên và hoàn toàn tin tưởng
nơi đấng Thiêng Liêng, vì Ngài là Công Bằng, Chân Lý và Ánh Sáng."
Ơn Trên ở đây không phải là một độc quyền của đạo
Gia Tô hay của những người tin ở đấng Christ: Ơn Trên có thể được ban xuống cho
tất cả người nào, dầu y là người Phật giáo, Ấn giáo, Hồi giáo hay Gia tô cũng vậy.
Được thấm nhuần Ơn Trên, tức là do sự sám hối, ăn năn tội lỗi và quyết chí sửa
mình mà được hưởng ân huệ tốt lành nó làm tiêu tan nghiệp chướng do luật Quả
Báo đưa đến. Sự suy gẫm, cầu nguyện, đọc Thánh Kinh, lập hạnh, và làm việc phụng
sự giúp đời, là những phương pháp thường được nêu ra trong các cuộc soi kiếp của
ông Cayce để sửa đổi tâm tính và tiến bộ tâm linh. Nhưng muốn được hiệu nghiệm,
những phương pháp đó phải được thi hành một cách thành thật, chứ không phải là
một cách máy móc. Nếu không có một tình thương nhân loại và chúng sinh phát ra
tự trong đáy lòng, nếu không có đức nhân ái từ bi, thì những phương pháp thực
hành kể trên chỉ là trống rỗng và không có giá trị gì. Chỉ có những kỷ luật
đúng đắn, một sức dẫn dụ mạnh mẽ quyết tâm cải tà quy chánh, mới có thể đưa
linh hồn vào đúng con đường của nó. Nhưng còn đối với hằng triệu linh hồn hãy
còn vào thời kỳ ấu trĩ về phương diện tâm linh, những phương pháp trên không thể
nhất thời đưa họ tiến ngay đến mục đích. Không phải tất cả mỗi người đều đã tiến
hóa đến một trình độ tâm linh đầy đủ để có thể đạt được trong một kiếp cái tình
bác ái rộng rãi bao la nó bao trùm tất cả mọi loài, tức là trạng thái thâm thức
đó mới có đủ mãnh lực làm tiêu tan mọi điều tật ách, nghiệp chướng do quả báo
dưa đến.
Trong trường hợp người thanh niên bị chứng bịnh lao ở
tủy xương sống, cuộc soi kiếp dường như biết rõ y không đủ sức thực hiện những
điều kể trên. Bởi đó, với sự thẳng thắn của một vị y sĩ biết rõ tiềm lực và khả
năng của bịnh nhân và không muốn làm cho y hy vọng những điều quá sức mình, ông
Cayce đã cho y biết rõ: "Bịnh anh chỉ có thể giảm bớt phần nào thôi, chứ
không thể dứt tuyệt". Tuy nhiên, cuộc soi kiếp không phải đã kết thúc.
Trong trường hợp này và những trường hợp khác nữa,
cuộc soi kiếp tiếp tục đưa ra cho bịnh nhân những phương pháp điều trị về phần
thể chất, để cho bịnh nhân có thể làm những cố gắng cụ thể để tự chữa bịnh lấy
mình. Sự kiên nhẫn, bền chí, can đảm và những đức tính khiêm tốn, nhân từ,
khoan hậu, mà bịnh nhân cố gắng phát triển và thâu thập được trong thời kỳ đó,
sẽ đóng góp phần nào trên phương diện tinh thần, ít nhứt là một cách gián tiếp,
để sửa chữa nghiệp quả. Như vậy, thay vì có một thái độ tiêu cực, thụ động đối
với vấn đề trả quả, những cuộc soi kiếp của ông Cayce luôn luôn khuyến khích bịnh
nhân hãy có một thái độ tích cực tranh đấu để vượt qua nỗi chướng ngại đau khổ
của mình. Dưới đây là một khía cạnh quan trọng khác của vấn đề chữa bịnh.
Trong những cuộc soi kiếp, ông Cayce luôn luôn đưa
ra những điều khuyên răn các bịnh nhân tùy theo trình độ tiến hóa riêng của từng
người. Ông đưa ra những phương pháp điều trị thiên hẳn về tinh thần cho những
người không thể hiểu được hoặc chống chọi lại những phương pháp đó. Bác sĩ
Alexis Carrel, tác giả hai quyển sách nhan đề: "Con Người, Một Vật Huyền
Bí" và "Cuộc Hành Trình Đến Thành Lourdes," cho biết rằng ở
Lourdes, nhiều ngườit sâu xa, đã được chữa khỏi ngay tại chỗ về bịnh ung thư và
những chứng bịnh nan y khác. Nếu như sự khỏi bịnh ấy quả có thật, thì chắc chắn
là việc ấy không thể xảy đến cho những người không có một đức tin và một thái độ
tinh thần giống như của những người được khỏi bịnh kể trên.
Sự nghiên cứu nhiều cuộc soi kiếp và khám bịnh của
ông Cayce chỉ rõ ràng nguồn tài liệu luôn luôn biết rõ giới hạn đức tin của bịnh
nhân. Trong nhiều trường hợp, những cuộc soi kiếp biết rằng vài bịnh nhân có thể
được chữa khỏi bằng phương pháp dẫn dụ tinh thần. Trong những trường hợp khác
cũng cùng một chứng bịnh nhưng bịnh nhân lại không thể chữa khỏi bằng phương
pháp đó, hoặc vì do sự thiếu hiểu biết, hoặc do sự hoài nghi, hoặc vì họ quá
thiên về quan niệm vật chất. Đối với những người này, tốt hơn là hãy khuyên họ
dùng phương pháp điều trị thể xác. Người ta nhớ một câu chuyện cổ điển Ấn độ
nói về một người đệ tử của một người đạo sĩ nọ. Người đệ tử đã trải qua một
giai đoạn huấn luyện công phu để có thể chế ngự được vật chất bằng sức mạnh
tinh thần. Y là một người đệ tử ưu tú và có nhiều khả năng. Y bèn ẩn mình trong
rừng sâu, và sau mười năm tập luyện y mới trở lại gặp Tôn Sư. Tôn Sư hỏi:
"Con đã làm gì trong suốt thời gian đó?" Người đệ tử đáp lại với một
giọng hơi tự đắc: "Con đã luyện tập chế ngự tư tưởng để có thể đi trên mặt
nước và bây giờ con có thể vượt qua sông như đi trên đất bằng." Vị Tôn Sư
nói với một giọng buồn rầu:
"Con ơi! Con đã lãng phí thời giờ vô ích. Con
há lại chẳng biết rằng con có thể vượt qua sông mà chỉ trả có một xu cho người
lái đò?"
Câu chuyện này do một dân tộc đã từng phát triển sức
mạnh tâm linh trải qua nhiều thế kỷ để lại, có một ý nghĩa sâu xa để cho chúng
ta suy gẫm. Lẽ dĩ nhiên, sự cố gắng để tự chữa bịnh cho mình bằng sức mạnh tinh
thần là một cố gắng đáng khen và nó giúp cho ta tự đào luyện tinh thần và ý
chí. Khoa học công giáo và những phong trào tôn giáo cùng một loại đã từng phổ
biến trước công chúng sự hiểu biết về những quyền năng của tư tưởng, nó là nguồn
gốc của nhiều chứng bịnh của người đời, và đồng thời cũng có thể được dùng để
chữa bịnh luôn. Tuy nhiên, người ta cần biết rằng có những chứng bịnh nguyên
nhân không phải do tư tưởng gây ra; nhiều chứng bịnh, dầu là nguyên nhân nào,
có thể điều trị bằng những phương tiện vật chất một cách hữu hiệu hơn là điều
trị bằng tinh thần.
Những quan niệm về y học của ông Cayce còn có một
khía cạnh khác: Những cuộc soi kiếp không cho là một phương pháp điều trị nào lại
"Tinh thần" hơn một phương pháp nào. Tất cả những phương pháp điều trị
đều có một nguồn gốc thiêng liêng như nhau.
Một người phụ nữ kia bị chứng đau lưng rất dữ dội.
Bà muốn biết xem nên theo cách điều trị thể xác hay tinh thần. Cuộc khám bịnh của
ông Cayce giải đáp câu hỏi đó như sau: "Bịnh trạng của bà phần lớn có thể
chữa khỏi bằng tinh thần. Nhưng bà hãy để tự nhiên. Nếu bà thấy đau nhiều, bà
hãy theo phép điều trị bằng thuốc men để đáp ứng sự nhu cầu của xác thể. Thật
ra hai phương pháp điều trị đều không khác gì nhau, vì là đều do một nguồn gốc
mà ra. Hai phương pháp ấy không phải tương phản nhau như vài người tưởng lầm."
Một ký giả ở Pittsburg bị bịnh tê thấp đã mười năm,
được khuyên nên điều trị bằng cách tắm nước nóng và dùng tử loại tuyến để làm
tăng sự lưu thông máu huyết và bài tiết chất độc trong máu. Cuộc soi kiếp nói:
"Mọi sự chữa bịnh đều do một Quyền Năng Thiêng Liêng. Ai chữa khỏi bịnh
cho anh? Đó là cái Nguồn Sống sinh ra muôn loài vạn vật. Bất cứ phương tiện nào
người ta dùng để chữa bịnh, dầu cho đó là thuốc men, máy móc dụng cụ, tắm nước
nóng, hay là phương tiện nào khác, người ta cũng phải trở về cái Nguồn Sống Duy
Nhứt, tức là Thượng Đế vậy."
CHƯƠNG 9
KÍCH THƯỚC MỚI CỦA
KHOA TÂM LÝ
Người ta có thể học
được nhiều việc bằng cách thử giải quyết những vấn đề khó khăn. Sự giải quyết
nhiều vấn đề lý thú căn cứ trên một nguyên tắc quan trọng là sự lý luận hay suy
ngẫm.
Vấn đề quan trọng nhứt trong mọi vấn đề bí hiểm của
cuộc đời là sự bí mật về con người. Con người là ai? Y từ đâu đến và sẽ đi về
đâu? Để giải đáp vấn đề này, chúng ta có thể áp dụng một phương pháp khoa học
giản dị như sau: Chúng ta đưa cho một người kia sáu cái diêm quẹt và bảo y hãy
sắp thành bốn hình tam giác đều cạnh với nhau (triangles équilatéraux.) Người ấy
lần mò sắp đặt các diêm quẹt một hồi lâu... Sau cùng y đành chịu thua và bỏ cuộc
vì không sao sắp được. Bài toán đố bí hiểm này chỉ có thể giải quyết được nếu
người ấy bỏ cái ý nghĩ sắp các diêm quẹt theo hai chiều đo (chiều dài và ngang)
trên một mặt bàn bằng phẳng, mà hãy thêm vào một chiều đo thứ ba (3ème
dimension), tức là chiều sâu, và sắp thành một khối Kim Tự Tháp (Pyramide).
Vấn đề bí hiểm của đời người đại khái cũng giống như
cái trò chơi kể trên. Chúng ta chỉ cần thêm vào một bề đo thứ ba, tức là yếu tố
thời gian, và chúng ta sẽ có thể hiểu được nguồn gốc và tương lai của con người.
Người ta thường cho rằng đời người chỉ là cái kiếp sống
của thể xác, kể từ khi bắt đầu sinh ra cho đến khi chết là hết. Nhưng nếu người
ta có thể chứng minh một cách khoa học rằng con người không phải là cái thể xác
vật chất, mà cũng là một linh hồn; linh hồn ấy đã từng sống trước khi y sinh ra
và sẽ tiếp tục tồn tại sau khi y chết, thì sự khám phá đó sẽ làm đảo lộn tất cả
khoa tâm lý học hiện naỵ Điều đó chẳng khác nào như một cái ống thăm dò mà người
ta cắm xuống tận những lớp sâu trong lòng Trái Đất để tìm mỏ dầu. Khoa Tâm Lý Học
hiện đại ví như một cái lỗ sâu có năm phân để trồng một củ hành, so với một cái
giếng dầu lửa bề sâu ba ngàn thước tượng trưng cho bề đo vừa nói trên.
Trong thời gian gần đây, các nhà tâm lý học đã
nghiên cứu tỉ mỉ về cá tính của con người, và nhờ sự nghiên cứu công phu đó,
người ta đã có nhiều sự áp dụng thực tế vào các vấn đề lao động, hướng nghiệp,
công tác xã hội... Tuy thế những sự phát minh đó cũng chỉ biết một cách rất
nông cạn về con người.
Nếu người ta áp dụng thuyết Luân Hồi, thì đó là một
ngọn đèn pha sáng rực soi vào những hang ngách tối tăm, sâu thẳm của vấn đề bí
hiểm này. Nhờ đó, người ta có thể nhận thấy rõ bằng cách nào được cấu tạo nên
những tánh tình, cử chỉ, thái độ, đức tánh, vận mạng cùng thân thế hiện nay của
một người.
Chúng ta có thể dùng một thí dụ khác: đời người có
thể ví như một khối nước đá ngâm dưới nước; chín phần chìm xuống nước chỉ có một
phần nổi lên trên. Thuyết Luân Hồi tiết lộ cho ta thấy chín phần khối nước đá
chìm dưới mặt nước, còn khoa tâm lý học hiện nay chỉ nghiên cứu một cách vất vả
mệt nhọc về một phần nhỏ bé nổi lên trên, mà ta có thể nhìn thấy!
Những tập hồ sơ của Cayce còn đưa ra nhiều thí dụ về
bề đo "Thời gian" kể trên, và về cách mà nó giải thích cá tính hiện
nay của một người. Trong một cuộc soi kiếp, ông Cayce có nói về một người lính
Gaulois bị tướng La Mã Annibal bắt làm tù binh và bắt làm nô lệ chèo thuyền ở
giữa biển. Người tù binh này bị các tướng da đen ngược đãi và sau cùng, y bị một
tên da đen đánh chết. Việc này xảy ra đã từ ba kiếp về trước, nhưng lòng căm
thù uất hận về hành động tàn ác này đã ăn sâu vào tiềm thức của y trải qua 22
thế kỷ. Trong kiếp này, y làm nghề nông nghiệp và trồng tỉa ở tiểu bang
Alabama, Hoa Kỳ.
Suốt cả đời, y luôn luôn có một lòng thù ghét sâu đậm
đối với dân da đen; thậm chí, y lập nên một Hội bảo vệ chủ quyền của người da
trắng. Đó là một thí dụ điển hình về việc người ta giữ nguyên vẹn cá tính từ kiếp
này sang kiếp khác. Người ta có thể tìm thấy rất nhiều trường hợp như thế trong
các tập hồ sơ Cayce.
Một nhà viết báo nó biểu lộ trong nhiều năm một tinh
thần chống Do Thái rất mãnh liệt. Cuộc soi kiếp cho biết rằng thái độ ấy được
truy nguyên ra từ một kiếp trước ở xứ Palestine, trong kiếp đó, y thuộc về giáo
phái Samaritains, phái này thường có những cuộc xung đột dữ dội với người Do
Thái ở nước láng giềng.
Một người đàn bà 38 tuổi, độc thân, đã có nhiều mối
tình duyên trong đời, nhưng không chịu kết hôn với một người nào vì bà ta có một
lòng nghi kỵ rất thâm sâu đối với đàn ông. Sự dè dặt và nghi kỵ này do bởi ở một
kiếp trước bà ta đã từng đau khổ vì bị chồng bỏ để đi tùng chinh trong trận
Thánh Chiến.
Một người phụ nữ nọ có một tinh thần tôn giáo rất rộng
rãi khoan dung, được biết rằng cô có đức tính này là nhở bởi kiếp trước có tham
dự cuộc Thánh Chiến, và đã từng sống chung với người Hồi Giáo. Trong khi tiếp
xúc với những người thuộc một tôn giáo khác hẳn, lần đầu tiên cô đã nhận thức
được rằng những người "Ngoại đạo" cũng biểu lộ những đức tính tốt như
can đảm, nhân từ, khoan hậu, và lòng sùng tín thiêng liêng. Điều này đem đến
cho cô một ấn tượng mạnh mẻ sâu xa đến nỗi nó đã làm cho cô có một ý thức rõ rệt
và bền bỉ về đức tính khoan dung đối với người thuộc tôn giáo khác hơn mình.
Trái lại, một nhà chuyên môn quảng cáo nọ có óc hoài
nghi và không có tín ngưỡng tôn giáo, kiếp trước cũng là một chiến sĩ trong trận
Thánh Chiến. Nhưng y cảm thấy có sự khác biệt giữa sự Thuyết Giáo và Hành Đạo
trong số những người mà y đã gặp, đến nỗi trong kiếp này y vẫn còn giữ một sự
nghi ngờ rất lớn đối với những sự biểu lộ tôn giáo về hình thức bên ngoài.
Những thí dụ kể trên gồm ba thái độ khác nhau: Thái
độ về vấn đề chủng tộc, đối với người khác phái và đối với vấn đề tôn giáo, mà
nguyên nhân là do bởi ở một kiếp trước. Lẽ tự nhiên trong mỗi trường hợp, đương
sự phải gặp những hoàn cảnh địa phương thuận tiện để gây cho y sự phản ứng về
các vấn đề đó. Người căm thù dân da đen sinh ra ở miền Nam Hoa Kỳ năm 1853 là
thời kỳ mà những phong tục và truyền thống ở xứ này là những hoàn cảnh thuận tiện
để gây cho y cái ý niệm kỳ thị chủng tộc da đen.
Vấn đề ảnh hưởng của hoàn cảnh địa phương cũng được
nêu ra trong những trường hợp khác như đã kể trên, hoặc trong nhiều trường hợp
tương tự. Sự kiện rằng có nhiều người cũng ở vào những hoàn cảnh địa phương giống
như nhau, nhưng lại có sự phản ứng khác hẳn, dường như chỉ rằng sự phản ứng đó
có một nguyên nhân sâu xa hơn là do những hoàn cảnh sinh hoạt ở kiếp này.
Các nhà chữa bịnh tâm thần đều đồng thanh cho rằng
những thái độ tinh thần của con người vốn từ trong tiềm thức biểu lộ ra ngoài.
Nguyên tắc Luân Hồi chỉ nới rộng lĩnh vực tìm thức để gồm luôn cả những kinh
nghiệm của những kiếp trước. Cũng như trong những trường hợp bệnh tật của xác
thể, người ta đã truy nguyên lý do của mỗi chứng bịnh ở những kiếp trước là do bởi
yếu tố thời gian. Đó là nói về những thái độ cử chỉ của con người đối với một
vài vấn đề nhất định. Những thái độ đó, cũng như những khuynh hướng, đố kỵ, ưa
thích... đều gồm lại làm thành phần cá tính của một người. Những bản năng tự tồn,
bản năng sinh sản... đều hỗn hợp một cách chặt chẽ với tất cả những điều ham muốn
khác của đời sống con người. Tuy nhiên, ngoài ra những sự nhu cầu căn bản chung
của nhân loại, còn có những điều thích thú say mê và hứng khởi đặc biệt, biểu lộ
một cách khác biệt nhau rất xa ở một số người. Thí dụ:
Trong một gia đình có năm người con, một đứa thích
âm nhạc, một đứa thích máy móc, một đứa thiên về hội hoạ, một đứa thích sưu tầm
các loài bướm; đứa sau chùng chơi bời du đãng và phá phách làng xóm.
Sự giải thích thông thường của khoa học tâm lý về sự
khác biệt giữa những khả năng và tính chất kể trên: Một là do sự di truyền và
hai là do những yếu tố tâm lý phân giải (psychanalyse) tùy thuộc nơi vị trí của
một người trong gia đình và những kinh nghiệm riêng mà y thâu nhập được.
Những tập hồ sơ của Cayce chứa đựng những thí dụ dưới
đây về những khuynh hướng đặc biệt của một số người, được truy nguyên ra từ nhiều
kiếp trước.
Một vị nha y sinh trưởng ở thành phố New York, mặc dầu
rất hài lòng về chức nghiệp và đời sống ở thành thị, nhưng thỉnh thoảng lại thấy
muốn sống ở ngoài đồng ruộng hoặc trên bờ sông với một khẩu súng đi săn và một
cần câu; và cắm trại một mình với một chiếc lều dựng lên giữa bãi sa mạc. Sự
thích thú sống gần với thiên nhiên này vốn không phù hợp với tâm tính của một
người quen sống ở thị thành, nhứt là gia đình của y đã từng sống ở thành thị trải
qua nhiều thế kỷ. Điều này chỉ có thể giải thích được bằng thuyết Luân Hồi. Cuộc
soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng trong một tiền kiếp, y là một người Đan Mạch
di cư sang Bắc Mỹ trong thời kỳ khai thác thuộc địa. Y sống ở New Jersey, trong
một vùng có nhiều đầm đìa, hồ ao, sông rạch; y sống với nghề săn bắt, gài bẫy
thú rừng, và buôn bán các loại thú. Cuộc đời hoạt động chốn bụi trừng, đầm lạch,
sông ngòi, đã đem cho y một sự thích thú đặc biệt vẫn còn tồn tại đến ngày nay,
tuy rằng điều ấy còn phải lệ thuộc vào đời sống hành nghề nha sĩ của y trong kiếp
này.
Có nhiều người cảm thấy yêu mến nồng nàn một xứ hay
một vùng địa phương xa lạ. Những cuộc soi kiếp truy nguyên ra sự hấp dẫn này ở
một kiếp trước của đương sự, trong kiếp đó y đã từng trải qua một thời kỳ sung
sướng và hạnh phúc ở xứ ấy. Thí dụ: Một người đàn bà nọ kinh doanh buôn bán lớn
ở vùng bờ biển phía đông xứ Hoa Kỳ, luôn luôn vẫn có ý muốn di cư xuống ở miền
Tây Nam xứ ấy. Sau cùng bà ta di cư thật và hiện nay bà làm chủ một khách sạn lớn
ở tại New Mexicọ Cuộc soi kiếp cho biết bà đã từng sống trong hai tiền kiếp ở
vùng này, và lòng trìu mến của bà đối xử ấy vẫn còn tồn tại trong những thế kỷ
trung gian.
Có bốn người kia, một người cảm thấy yêu mến những
vùng hải đảo miền Nam Thái Bình Dương, một người muốn sống ở tiểu bang New
Orleans, một người yêu mến xứ Ấn Độ và một người lại thích ở xứ Trung Hoa. Những
cuộc soi kiếp cho biết rằng trong kiếp trước, họ đã từng sống ở các xứ ấy, và
đó là lý do của sự hấp dẫn nói trên.
Sự thích thú về một môn nghệ thuật hay một nghề nghiệp
nào cũng là do ở những kinh nghiệm trong các tiền kiếp. Một thiếu phụ kia yêu
thích đến say mê môn khiêu vũ và kịch nghệ Hy Lạp, được biết rằng đó là do kinh
nghiệm trong một kiếp trước của y ở Hy Lạp, trong thời kỳ những môn nghệ thuật
này phát triển đến cực điểm. Sự thích thú của một thanh niên nọ về hiện tượng
thần giao cách cảm được truy nguyên ra từ một kiếp trước ở châu Atlantide, trong
kiếp trước y đã dạy môn tâm lý học và chuyển di tư tưởng.
Cũng do một kinh
nghiệm cũ về nghề hoa tiêu về giám đốc ngành chuyển vận ở châu Atlantide, mà một
thiếu nữ nọ cảm thấy rất thích thú về môn lái máy bay và môn kỹ thuật hàng
không trong kiếp này. Một người đàn bà nọ ham thích làm việc công tác xã hội phụng
sự các trẻ em tật nguyền khốn khổ, được cho biết rằng kiếp trước y đã từng sống
ở xứ Palestine, tại đây y chịu ảnh hưởng giáo lý của đức Jusus và bắt đầu hiến
dâng cuộc đời để săn sóc cứu chữa những kẻ tàn tật và bịnh hoạn. Một vị kỹ sư nọ
đảm nhiệm một cơ quan nghiên cứu, và đã từng làm việc nhiều năm trong phong
trào phát triển ngành kỹ thuật, kiếp trước vốn là một người Atlante chuyên coi
về ngành Quản trị Khoa học trong xứ ở châu Atlantide.
Sự tái diễn những
kinh nghiệm và khả năng đặc biệt từ những tiền kiếp, dường như càng biểu lộ rõ
rệt trong cuộc đời của những nhân vật tên tuổi. Chúng tôi không căn cứ điều này
trên những cuộc soi kiếp của ông Cayce, mà căn cứ trên tiểu sử của những nhân vật
ấy.
Thí dụ như trường hợp của ông Heinrich Schliemann,
nhà khảo cổ Đức đã khám phá ra những di tích cổ của thành phố Troie bị chôn vùi
dưới mặt đất, và nhờ đó đã xác nhận tính cách lịch sử của thiên Anh Hùng Ca
"Iliade" của Homère. Ông là con của một vị mục sư nghèo, giảng đạo tại
miền Bắc nước Đức nhưng trong lúc thiếu thời ông đã say mê "Iliade",
ông nhất định học tiếng Hy Lạp và truy tầm nơi diễn tả sự tích của thiên Anh
Hùng Ca bất hủ này.
Trong ba mươi lăm năm, ông Schiemann cố gắng dành dụm
một số tiền để giúp ông thực hiện công trình khảo cổ này. Ông trở nên một nhà
sinh ngữ học ưu tú, nhưng ông lại thích nhất môn sinh ngữ Hy Lạp và tất cả những
gì thuộc về xứ ngàn năm văn vật này. Về sau, ông dùng những cách hành văn Hy Lạp
trong khi nói chuyện và nhà chép tiểu sử của ông thuật lại rằng trong dịp làm lễ
rửa tội cho con trai ông, ông đặc quyển Anh Hùng Ca của Homère trên đầu con ông
và ngâm vang lên những câu thơ bất hủ trong đó trước khi giao nó cho vị linh mục
làm phép rửa tội! Điều này chỉ là một trong những cử chỉ lố lăng khác, nó phản ảnh
một lòng hâm mộ và say mê nồng nhiệt nền văn hóa cổ xưa của xứ Hy Lạp. Một sự
say mê nồng nhiệt như thế có thể hiểu được nếu chúng ta thấy rằng đó chỉ là do
ký ức của linh hồn muốn nhắc nhở và sống lại thời kỳ hạnh phúc đã qua trong dĩ
vãng.
Một thí dụ khác cũng rất lý thú là trường hợp của
nhà văn Lafcadio Hearn. Ông sinh ra trên một hòn đảo ở gần Hy Lạp, cha ông là
người Ái Nhĩ Lan, mẹ Ông là người Hy Lạp. Ông đi phiêu lưu giang hồ từ Hy Lạp
sang Anh quốc, Mỹ quốc, đảo Guadeloupe, Martinique, và sau cùng ông đã tìm thấy
"Quê hương tinh thần" của ông ở xứ Phù Tang tại đây ông cưới vợ Nhật,
đổi tên Nhật, và dạy học ở một trường Nhật. Sự hiểu biết sâu xa về tâm hồn của
người Nhật bổn, tài năng lạ lùng của ông trong sự diễn đạt cái tinh hoa của nước
Nhật cho thế giới Âu Tây và diễn đạt tư tưởng Âu Tây cho người Nhật, không làm
cho ta ngạc nhiên nếu ta thấy rằng đó chỉ là do những kinh nghiệm cũ của ông ta
trong một tiền kiếp ở Nhật Bản.
Trường hợp của ông T.E.Lawrence là một thí dụ khác nữa.
Ông ta rất đặc biệt khôn khéo trong việc tiếp xúc với người Ả Rập và đã sống
chung với họ như một người Ả Rập. Ông không hề cảm thấy thoải mái dễ chịu ở tại
quê hương xứ sở hay trong gia đình ông ở Anh quốc. Ông chán nản mọi sự học ở
nhà trường, trừ ra lớp học lịch sử cuộc Thánh Chiến (Croisades), và việc nghiên
cứu các tòa lâu đài cùng thành lũy thời Trung Cổ.
Sự thành công đặc biệt của ông trong vai trò tướng
soái chỉ huy quân đội Ả Rập có thể hiểu được như là kết quả của một giai đoạn
phiêu lưu ở kiếp trước hồi thời Trung Cổ, trong kiếp đó chính ông ta là người Ả
Rập và là một chiến thuật gia, nhưng không đạt được mục đích trước khi ông ta từ
trần.
Những khuynh hướng đặc biệt kể trên không phải chỉ
có những nhân vật tên tuổi của lịch sử mà thôi; mỗi người đều có thể nhận thấy
ít nhiều khuynh hướng đó ở chính những bạn bè thân quyến của mình.
Những nét riêng hay đặc điểm về cá tính, cũng như những
thích thú và cử chỉ cùng thái độ đặc biệt của một người là những yếu tố quan trọng
trong việc phân tách tâm lý, và những tập hồ sơ của Cayce đã nêu ra những trường
hợp vô cùng lý thú về sự truy nguyên ra những kiếp trước.
Bà vợ của một nhà triệu phú nọ Ở miền Tây Hoa Kỳ có
một tính chất rất độc tài và chuyên chế. Cuộc soi kiếp cho biết nguyên nhân là
vì bởi kiếp trước, y đã từng làm giáo sư ở tiểu bang Ohio, và trong những kiếp
trước nữa, y đã từng nắm giữ những chức vụ cao ở Palestine và ở Ẩn Độ.
Một thanh niên nọ từ thuở nhỏ đã tỏ ra có tính rất
hay tranh luận đôi co, và có thể lý luận mọi sự một cách rất hùng hồn và xác
đáng. Nguyên nhân là trong một kiếp trước, y đã từng làm một luật gia và một kiếp
trước nữa, y đã làm quan Tòa ở xứ Ba Tư.
Một người đàn bà nọ có khuynh hướng trầm lặng và thần
bí. Trong kiếp trước, bà ấy đã từng cầm đầu một tu viện kín, vào hồi đầu thế kỷ
mười chín.
Một thanh niên nọ con nhà giàu có lớn, nhưng lại có
tật chè chén say sưa quá độ đến nỗi gây sự thất vọng và đau khổ cho một gia
đình trưởng giả. Thói say sưa này được truy nguyên ra do sự chơi bời phóng túng
trong kiếp trước, hồi thời kỳ thiên hạ đổ xô nhau đi tìm vàng ở California. Người
ta thấy hằng trăm trường hợp tương tự trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce.
Khoa tâm lý học hiện đại cho rằng sự khác biệt giữa
những người nhân loại được định đoạt trước hết bởi sự di truyền của cha mẹ và
sau đó bởi ảnh hưởng của hoàn cảnh chung quanh. Tuy nhiên, theo quan niệm về
thuyết Luân Hồi thì chính sự di truyền và ảnh hưởng của hoàn cảnh cũng là những
kết quả báo ứng của những nguyên nhân gây ra từ những kiếp trước, và bởi đó mọi
đức tánh của linh hồn đều là do cái công phu đào tạo của từng cá nhân chứ không
phải do cha mẹ truyền lại.
Đức Phật có nói: "Hành động là kết quả của tư
tưởng." Những gì mà chúng ta làm hiện nay là kết quả của những điều ta đã
suy ngẫm từ trước. Trong Phật giáo, thuyết Luân Hồi là một giáo lý căn bản; đức
Phật dạy rằng những đức tính của con người bây giờ là kết quả của những tư tưởng
và hành động của y trong những kiếp trước.
Có nhiều người, tuy chấp nhận Nhân Quả, nhưng lại quan
niệm luật ấy dưới khía cạnh trừng phạt và đau khổ. Ta nên nhớ rằng danh từ
Karma chỉ có nghĩa là hành động, và đó là một danh từ trung lập. Mọi sự vật
trong vũ trụ đều có hai phương diện Âm và Dương, và Nghiệp Quả (Karma) cũng
không ngoài cái thông lệ đó. Lẽ tất nhiên, một hành động có thể tốt hay xấu, vị
kỷ hay vị tha. Nếu cách hành động cư xử của một người là tốt, thì không có gì
ngăn trở y cứ tiếp tục làm những điều phải và tốt lành do cái đà tiến hoá tự
nhiên của con người. Điều đó có thể gọi là Nguyên Tắc Liên Tục của nghiệp quả.
Trái lại, nếu một người có những hành động xấu xa hung dữ độc ác, thì nghiệp quả
đó phải được sửa chữa bằng luật Quả Báo; điều này gọi là Nguyên Tắc Thừa Trừ.
Do Nguyên Tắc Thừa Trừ, tức là do bởi mãnh lực tạo
thế quân bình của Luật Nhân Quả, chúng ta được dìu dắt trở lại con đường chính,
là con đường tự tu tiến và cải thiện lấy mình. Còn do Nguyên Tắc Liên Tục,
chúng ta cứ từ từ tiến bước một cách đều đặn, không gián đoạn trên con đường
chính, tức là con đường Tiến hóa đưa đến mục đích giải thoát vậy.
CHƯƠNG 10
NHỮNG HẠNG NGƯỜI KHÁC
NHAU
Trong sự tiếp xúc hằng
ngày với những người chung quanh, chúng ta có thể phân biệt được một vài loại
mà chúng ta sắp thành hạng theo một hệ thống riêng. Có hạng người tánh tình cởi
mở, xã giao lịch thiệp; có hạng người dè dặt kín đáo, tánh tình trầm lặng; có hạng
người ích kỷ, hạng người vị tha...
Nhiều nhà tâm lý học đi đến kết luận rằng con người
có thể sắp thành hạng, và lập một căn bản khoa học cho việc sắp hạng ấy. Sự
phân hạng thông thường nhất là cuả Carl Jung, ông này phân loài người ra làm
hai hạng chính: Hạng người có tâm hồn khép chặt (intraverti); và hạng người có
tâm hồn cởi mở (extraverti). Hạng người "Khép chặt" tức là hạng người
hướng sự chú ý của họ vào bên trong, nghĩa là vào chính bản thân mình; còn hạng
người "Cởi mở" tức là hạng người hướng sự chú ý của họ ra thế giới
bên ngoài.
Tuy nhiên, các Đạo gia cho rằng Carl Jung và những
nhà tâm lý học khác đều không đưa ra những giải thích mỹ mãn và đích đáng về lý
do nào đã khiến cho một người sinh ra đời lại có một tâm hồn khép chặt, và một
người khác sinh ra lại có một tâm hồn cởi mở. Ông Carl Jung và những nhà bác học
khác cho rằng hai trạng thái tâm lý căn bản này là do những nguyên nhân về sinh
lý. Tuy nhiên quan niệm của các Đạo gia đối với vấn đề này, cũng như những vấn
đề khác, thì nguyên nhân về sinh lý kể trên chỉ là phụ thuộc; còn các sinh hoạt
cùng thái độ cử chỉ của một người trong một kiếp trước mới là nguyên nhân
chính.
Những tập hồ sơ Cayce có ghi chép rõ ràng nhiều trường
hợp hướng nội, tức là của những tâm hồn khép chặt, nguyên nhân do bởi những
kinh nghiệm từ kiếp trước. Xét kỹ những trường hợp này, người ta thấy rằng
nguyên tắc liên tục của luật Nhân Quả hành động một cách rõ ràng, và chuyển từ
kiếp này sang kiếp khác một vài thái độ hay trạng thái tâm lý của con người một
cách liên tục không gián đoạn. Dưới đây là một trường hợp: Một thiếu nữ 21 tuổi,
sinh viên, có khiếu về âm nhạc, nhưng có tánh e lệ rụt rè một cách quá đáng. Mặc
dầu cô có dung mạo đẹp đẽ, nhưng cô khó tìm bạn và rất buồn mà thấy mình không
được nhận vào Câu Lạc Bộ của trường. Người ta không biết gì về những hoàn cảnh
gia đình của cô trước khi cô vào trường, vì có thể đó là nguyên nhân gây cho cô
cái tánh rụt rè nhút nhát bây giờ. Tuy nhiên, cuộc soi kiếp của ông Cayce cho
biết rằng điều này có nguyên nhân ở một kiếp trước. Hồi đó, cô ta là một mệnh
phụ dưới triều đình nước Pháp, có tài hoa, sắc đẹp và rất lịch thiệp. Nhưng chồng
bà vốn là một người ích kỷ, không muốn cho bà xã giao khéo léo và lịch sự với tất
cả mọi người. Bởi đó, ông ta ngăn trở mọi sự giao tế xã hội của vợ bằng một sự
áp chế lạnh lùng và khắc nghiệt, thậm chí có khi ông ta đánh đập vợ bằng roi vọt.
Điều này làm cho bà vợ e dè sợ sệt, và sự sợ sệt đó hãy còn in sâu vào tiềm thức
cho đến bây giờ.
Sau đây là một trường hợp cũng có sự áp chế tương tự,
tuy rằng trong những hoàn cảnh khác hẳn. Ông Cayce soi kiếp cho một thah niên
28 tuổi, anh chàng này hiếu học và tâm tính "Khép chặt". Ông Cayce
cho biết trong một kiếp trước, y bị khủng bố tàn nhẫn trong những vụ xử án các
tay phù thủy ở Salem, thuộc tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ. Kinh nghiệm đó đã
bộc lộ bằng hai cách trong tâm tính của y bây giờ. Trước hết y có sự căm hờn đối
với mọi hình thức áp chế; và sau đó y có tánh rất hiếu học, nhưng lại muốn giữ
những điều hiểu biết riêng cho mình, không muốn thố lộ cho ai.
Chúng ta đã thấy rằng cho một con chó hay con mèo mà
bị đánh đập tàn nhẫn, chúng cũng biết tự vệ và có lòng đố kỵ với loài người. Lẽ
tự nhiên, đối với người thanh niên này, trong tiềm thức của y vẫn còn in sâu một
bản năng tự vệ, nó khiến cho y hãy giữ gìn đề phòng những người chung quanh,
không chịu tiếp xúc với họ và không chịu thổ lộ với ai những điều hiểu biết của
mình. Những tập hồ sơ Cayce còn ghi nhiều trường hợp giống như trên về những vụ
án phù thủy ở Salem, mà kết quả là làm cho đương sự có một khái độ khép nép, ẩn
độn, dè dặt cũng y như thế. Một vị bác sĩ có tính rất dè dặt kín đáo, không
thích giao du, được biết nguyên nhân là vì trong một kiếp trước, y đã giữ giới
tịnh khẩu theo kỷ luật của phái Quaker. Một vị giám đốc Thương Vụ Ở New York
cũng có tính rụt rè, thiếu xã giao lịch thiệp. Trong một kiếp trước, ông ta là
một nhà thám hiểm, sống một cuộc đời cô độc và tự lập ở miền Nam Phi Châu. Một
cô nữ sinh nhút nhát và tự ti mặc cảm, được biết kiếp trước cô ta là một người
thổ dân da đỏ dưới thời đô hộ của người thực dân da trắng ở Bắc Mỹ Châu và hãy
còn giữ thái độ nghi ngờ và giữ mình đối với kẻ khác.
Theo sự chứng minh của những trường hợp kể trên và
nhiều trường hợp khác trong tập hồ sơ Cayce, thì tính rụt rè ẩn độn vẫn kéo dài
một cách liên tục từ kiếp này sang kiếp khác, bắt đầu từ kinh nghiệm đầu tiên
khiến cho đương sự có thái độ đó. Nguyên tắc liên tục này cũng áp dụng y như
trong trường hợp những người có tánh tình cởi mở. Đây là trường hợp một người
đàn bà ngoài ba mươi tuổi, đã hai lần ly dị, có một tâm hồn cởi mở và vẫn còn
nghĩ đến một cuộc tái giá lần thứ ba. Cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng
cái thái độ hồn nhiên, yêu đời đó được truy nguyên từ hai kiếp về trước: Trong
một kiếp, cô làm huấn luyện viên tại một khiêu vũ trường hồi thời kỳ khai mở
thuộc địa ở Bắc Mỹ; trong một kiếp trước nữa dưới triều đình vua nước Pháp, cô
là một bà ái phi của vua Louis thứ mười lăm. Trong kiếp đó, cô đã phát triển được
những khả năng khôn khéo, lịch thiệp và quyến rũ, làm cho người người đều
thương mến, từ ông vua cho đến chị bếp trong cung cấm. Trong kiếp làm huấn luyện
viên khiêu vũ, cô cũng đã xử dụng và phát triển thêm những khả năng trên
đây.
Đây là một thí dụ lý thú khác nữa: Một nhà làm trò ảo
thuật ở New York có một sức hấp dẫn rất mạnh, xã giao lịch thiệp, và đặc biệt
có tài hài hước, được biết rằng những khả năng trên đây truy nguyên từ những
kinh nghiệm trong hai kiếp trước. Cuộc soi kiếp cho biết trong một kiếp trước,
y là một trong những người khai thác thuộc địa đầu tiên đến vùng Mohawk Valley ở
Bắc Mỹ. Những đức tính mà y đã phát triển trong kiếp đó và một kiếp trước nữa,
đã giúp cho y có cái khả năng hấp dẫn và chỉ huy kẻ khác trong kiếp này. Sự
khôn khéo lịch thiệp và tài lãnh đạo của y được phát triển là do thời kỳ tranh
đấu cho lý tưởng ở Bắc Mỹ hồi thuở ban đầu. Sự nhanh trí khôn và tinh thần hài
hước của y nảy sinh ra từ một kiếp làm hề dưới triều vua Henri VIII ở Anh quốc.
Nói tóm lại, tất cả những trường hợp của những người
có tâm hồn cởi mở và xã giao lịch thiệp dường như kết quả của những hoạt động
xã hội trong những kiếp trước đó. Trong những tập hồ sơ của Cayce, có nhiều trường
hợp thành công hoặc thất bại trong sự giao tế và sống hòa bình với hoàn cảnh xã
hội bên ngoài. Một trường hợp là của một người đàn bà có tính chất cởi mở, hoạt
động và vị tha. Trước hết, cô có tham vọng trở nên một nữ tài tử, nhưng hoàn cảnh
gia đình và một thể xác lùn thấp không làm cho được như ý nguyện, cô bèn xoay
qua vấn đề kinh doanh. Cuộc soi kiếp cho biết kiếp trước trong thời kỳ Cách Mạng
ở Bắc Mỹ, cô đã hưởng thụ rất nhiều, có địa vị xã hội cao, sống một cuộc đời xa
hoa lộng lẫy, nhưng thiếu lương thiện và khinh thường đạo lý. Khả năng lôi cuốn
hấp dẫn kẻ khác, tinh thần hài hước và khoa ngôn ngữ của cô là do từ kiếp đó mà
có; nhưng vì cô đã xử dụng khả năng ấy một cách thiếu đạo đức nên kiếp này bị
thất bại trên trường đời.
Những trường hợp kể trên chỉ cho ta thấy rằng vấn đề
nghề nghiệp vẫn đi đôi với vấn đề đạo đức tâm linh. Người ta thường thấy, cũng
như trong trường hợp này rằng sự thất bại về nghề nghiệp, lý do không phải vì
thiếu khả năng, mà vì thiếu tinh thần đạo đức; điều này không thể sửa chữa nếu
tham vọng về nghề nghiệp của đương sự được thỏa mãn một cách êm đẹp, tốt lành.
Cuộc soi kiếp khuyên người thiếu phụ này, lúc ấy mới có ba mươi hai tuổi, hãy
hành nghề tài tử hoặc săn sóc trẻ em thiếu nhi hay cô nhi nói tóm lại, cô phải
dùng những khả năng của mìn vào những mục đích xây dựng và vị tha.
Đây là một trường hợp khác của một người đàn bà, bốn
mươi chín tuổi, làm thư ký ở Hoa Thịnh Đốn, vì trong kiếp trước đã lạm dụng những
đức tính lịch thiệp xã giao của mình, nên phải chịu những điều kiện tâm lý khắc
nghiệt để sửa đổi trong kiếp này. Trong những bức thơ, cô cho biết rằng trong bất
cứ mọi giới mà cô cố gắng để tiếp xúc, cô đều cảm thấy rằng không được mọi người
hoàn nghinh. Có lẽ đó là vì hồi thuở nhỏ, cô thường bị những người anh và chị
trong gia đình ruồng bỏ, nên vẫn còn mang nặng cảm giác ấy khi ra tiếp xúc với
đời. Cô viết thơ như sau: "Tôi lớn lên với một sự mặc cảm sợ sệt luôn luôn
ám ảnh tôi. Khi tôi đi chơi với một nhóm bạn bè, tôi luôn luôn cảm thấy rằng sự
có mặt của tôi không cần thiết, và tôi tự hỏi rằng tôi phải nói gì và phải làm
gì. Tôi muốn đi sâu hơn vào các vấn đề, nhưng không biết phải làm sao. Tôi luôn
luôn có cảm tưởng rằng tôi phải cố gắng làm nhiều hơn kẻ khác, để làm cho họ
vui lòng. Bởi đó, tôi hy sinh sức khỏe và thời giờ của tôi để làm việc gì cho một
người nào đó. Tôi muốn rằng người ta cần dùng đến tôi."
Kế đó, cô thuật lại rằng đã bị ba lần thất vọng vì
tình, trong đó có hai lần người yêu bỏ đi cưới vợ khác. Cuộc soi kiếp cho biết
người đàn bà này trong kiếp trước là một trong những người khai phá thuộc địa đầu
tiên ở tiểu bang Ohio, Hoa Kỳ. Y đối xử với người khác một cách vui vẻ, lễ độ,
nhưng chỉ vì mục đích ích kỷ, trục lợi. Cuộc soi kiếp nói: "Linh hồn này
tuy được thỏa mãn về sự thành công của mình, nhưng đã đem lại sự thất vọng cho
nhiều người. Những người mà y lợi dụng trước kia, ngày nay trở lại gây những sự
lo âu phiền muộn cho y trong kiếp này. Lợi dụng kẻ khác làm cái đà tiến thân
cho mình, tức là tạo nên nghiệp quả xấu mà ngày nay y phải trả." Định luật
vũ trụ rất mực công bình: Nó trả lại một cách đúng đắn những gì của ta cho ra.
Cũng như một cái gương phản chiếu, những điều kiện sinh hoạt của người đàn bà
này phản ảnh những gì y đã gây ra trong cuộc đời kẻ khác. Thật ra, trong kiếp
trước cô không mong muốn sự họp bạn với kẻ khác, trừ ra khi nào cô có thể lợi dụng
họ. Trong kiếp này, từ thuở nhỏ sống trong gia đình, cô đã bị ngược đãi, làm cô
cảm thấy bị ruồng bỏ. Bởi đó cô cảm thấy cuộc đời bấp bênh và tâm hồn cô trở
nên khép chặt cho đến lúc trưởng thành cũng vẫn còn. Cô có một dung nhan khá đẹp
và những đức tính đầy đủ để có thể hấp dẫn nhiều người, nhưng mặc dầu cô tưởng
rằng được mọi người yêu mến, sau cùng cô đã bị thất vọng. Cô nhìn nhận rằng cái
cảm giác bị ruồng bỏ và tâm hồn khép chặt của cô đã làm cho cô thay đổi thái độ
và cố gắng giúp đỡ kẻ khác để được mọi người yêu mến, và được mọi người cần
dùng đến mình. Và đó chính là cách hành động sửa đổi tốt lành của luật Nhân Quả.
Sự xã giao khôn khéo mà cô đã lạm dụng do lòng ích kỷ
và thiếu thành thật trong kiếp trước, đã đem đến cho cô sự khó khăn trở ngại hiện
nay, mà cô chỉ có thể vượt qua được bằng những việc làm vị tha, với một tinh thần
thành thật giúp đỡ người khác. Sự lợi dụng lường gạt kẻ khác dường như là một
thói xấu thông thường, và thuộc về loại quả báo dội ngược trên bình diện tâm
lý. Về điểm này, dưới đây là một đoạn trong cuộc soi kiếp của ông Cayce mà ông
đã thốt ra với một giọng không úp mở:
"Linh hồn này thường bị kẻ khác làm cho thất vọng.
Hãy nghe đây cái định luật căn bản và bất diệt này: Ai gieo giống nào có ngày sẽ
gặt giống nấy. Kiếp trước, cô đã phỉnh lừa gạt gẫm kẻ khác. Ngày nay, chính cô
bị kẻ khác gạt gẫm phỉnh lừa, làm cho cô bị thất vọng để cho cô học bài học
kiên nhẫn, là đức tính đẹp đẽ nhất trong tất cả mọi đức tính."
Nói chung, luật Nhân Quả luôn luôn hành động theo nguyên tắc giáo dục, sửa
đổi, cải tiến, và lập lại thế quân bình trong tâm tính của con người. Mục đích
rốt ráo là làm cho người đời sẽ quay đầu hướng thiện, và cứu cánh sẽ trở nên trọn
lành.
CHƯƠNG 11
QUẢ BÁO TÂM LÝ
Chúng ta đã thấy bằng
cách nào tánh kiêu căng, một thói xấu trên địa hạt tinh thần có thể gây nên quả
báo cụ thể trên địa hạt vật chất dưới dạng những bịnh tật khốn khó. Những tập hồ
sơ Cayce cũng chứa đựng nhiều trường hợp mà những tội lỗi trên địa hạt tinh thần
gây nên quả báo thuộc về tâm lý; trong số đó có hai trường hợp đáng kể về quả
báo lạc loài cô đơn, mà nguyên nhân là tội bất khoan dung.
Trường hợp thứ nhất là của một vị nữ tu trong một tu
viện Pháp hồi thời vua Louis mười bốn. Vị nữ tu này rất nghiêm khắc, lạnh lùng
và thiếu đức bao dung đối với những sự lầm lạc yếu đuối của người đời, hiểu
Thánh Kinh một cách quá chặt chịa, gò bó từng chữ từng câu, và khinh bỉ những
người nào vi phạm những lời răn dạy trong Thánh Kinh. Hậu quả của thái độ khắc
nghiệt đó biểu lộ trước hết trong kiếp này bằng một chứng bịnh đau hạch, dây
dưa không dứt, làm cho bịnh nhân bị hoại huyết quá nhiều trong lúc có kinh nguyệt.
Chứng bịnh này làm cho cô không thể đi học đều đặn, mỗi tháng nằm liệt giường hết
hai tuần lễ, làm cho cô trở nên nhút nhát, thích sống cô đơn, và tránh xa các bạn
bè đồng lứa tuổi. Những điều này có ảnh hưởng đến cá tính của cô về mọi mặt.
Về sau những chứng bịnh kể trên đã lần lần giảm bớt.
Nhờ có một thân hình đẹp đẽ, cân đối, cô làm nghề kiểu mẫu ở New York và lập
gia đình. Tuy nhiên, cuộc tình duyên của cô không có hạnh phúc. Vợ chồng không
hợp ý tâm đầu: Người chồng thì lạnh lùng và khắc khổ, còn cô thì lại khao khát
sự yêu đương. Trận Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, người chồng phải vượt biển tùng
chinh. Từ đó, cô bắt đầu sống một thời kỳ độc thân, làm cho cô buồn không thể
chịu nổi cảnh đơn chiếc, nên phải dọn vào ở trong một trại nghỉ mát. Tại đây,
cô bắt đầu uống rượu và sống một cuộc đời bê tha. Lúc đầu cô cảm thấy rằng uống
một hai ly rượu giúp cô thoát khỏi sự ám ảnh nặng nề của cơn sầu khổ. Nhưng một
khi đã bước vào con đường ấy rồi, cô không thể ngưng lại được nữa; càng ngày
càng uống rượu nhiều thêm. Có khi cô uống luôn ngày đêm không dứt, trong ba tuần
liên tiếp như vậy, và ngủ với bất cứ người nào, lính thủy, lính tập hay phi
công, tùy theo lúc cao hứng. Khi cô say rượu thì mất cả mọi sự dè dặt trong cử
chỉ, và bất chấp cả áo quần. Cô đi tiểu tiện và đại tiện ngay ở giữa sân nhà chỉ
khoác một cái áo choàng để hở, và nếu người ta không ngăn cản thì cô cứ điềm
nhiên khỏa thân đi thẳng vào phòng khách lữ quán đang ở trọ. Sau cùng, sức khỏe
của cô bắt đầu suy sụp dưới ảnh hưởng chất men rượu nồng. Hai bàn tay bắt đầu
run đến một mực mà cô không thể cầm viết ký tên vào những ngân phiếu để lãnh tiền
của chồng gởi về. Trong những lúc tỉnh táo và đầy đủ trí khôn, cô quyết định rời
khỏi trại nghỉ mát trung tâm quy tựu hằng nửa chục những căn cứ hải quân và đồn
trại ở gần bên. Những bức thư cuối cùng cho biết rằng nay cô làm thơ ký với ít
nhiều trách nhiệm; nhưng về sau cô vẫn tiếp tục chè chén bê tha, và sau cùng đã
ly dị chồng. Dường như sự trụy lạc của cô trước hết là do bởi thần kinh quá
căng thẳng, mà điều này lại phát sinh từ chứng bịnh đau hạch mà ra. (Ông Cayce
hay nhấn mạnh rằng các bộ phận hạch tủy trong thân người thường là những phương
tiện biểu lộ của luật quả báo). Chứng bịnh này lại là cái hậu quả trực tiếp của
những hành vi kết án khắc nghiệt của cô đối với kẻ khác và sự thiếu lòng nhân từ
của cô ở kiếp trước. Những sự lầm lạc yếu đuối của kẻ khác, mà trước kia cô lên
án một cách khắt khe, nghiệt ngã, ngày nay đã trở nên những sự lầm lạc yếu đuối
của chính mình. Bằng cách trả quả báo như thế, cô mới hiểu được rằng sự lầm lạc
tội lỗi của người đời là đáng thương, và họ là những người mà ta phải thông cảm
và giúp đỡ thay vì lên án và chê bai. Cũng như những kẻ chế nhạo, những người
chỉ trích chê bai kẻ khác phải chịu nhận lãnh cái số phận của những kẻ mà họ đã
lên án.
Trường hợp thứ nhì là của một người đàn bà có thói
kiêu căng và thành kiến trong hai kiếp trước. Trong một kiếp vào thời kỳ của đấng
Christ tại Palestine, cô là vợ của một vị giáo sĩ Do Thái. Với địa vị xã hội
này, cô đã tỏ ra khắc nghiệt và khinh bỉ những người thanh niên phóng đãng, tự
do, vô tôn giáo. Thời gian trôi qua cũng không làm phai mờ và giảm bớt lòng
kiêu căng và tự phụ của cô. Trong kiếp thứ nhì, cô tái sinh ở Salem, tiểu bang
Massachusetts, Hoa Kỳ, nhưng vẫn không chừa thói khắc nghiệt và lên án kẻ khác,
mà dường như cô càng trở nên khó khăn nghiệt ngã hơn! Cuộc soi kiếp cho biết rằng:
Linh hồn này đã gặp phải những người rất khó tính trong kiếp hiện tại, những
người khắc khe, soi mói và sẵn sàng lên án kẻ khác. Trước kia linh hồn này đã
gây nhiều đau khổ cho kẻ khác. Khi người ta nhận chìm một vài người xuống nước
trong vụ xử án những người phù thủy, cô chứng kiến việc ấy và vỗ tay hoan
nghinh. Khi những người khác bị đánh bằng roi vọt, cô cũng biểu đồng tình. Bởi
vậy, linh hồn này thường nhớ lại những sự hành phạt đau khổ của những thời kỳ
đó trong những khi cô bị loạn trí. Hiện thời cô bị chứng nội thương trong mạch
máu và tủy xương sống, do bởi thiếu sự điều hành giữa bộ thần kinh giao cảm và
bộ óc, chứng bịnh này là do cô có những thời kỳ "phản ứng thể xác." Sự
phản ứng thể xác này là một chứng bịnh thần kinh mà đương sự bị đau từ năm 39
tuổi, và những cơn khủng hoảng thường tái phát trải qua 14 năm kế đó. Cô không
có gia đình; nhà ở khu sang trọng tại New York, và sự kiện rằng cô không có làm
nghề nghiệp gì dường như chứng tỏ rằng cô có phương tiện và tài sản. Người ta
có thể cho rằng sự ở không, vô sự có thể là một yếu tố quan trọng gây nên những
cơn khủng hoảng tinh thần.
Nhưng đó chỉ là một nguyên nhân tạm bợ bên ngoài, có
tính cách nhất thời mà thôi, chứ không phải nguyên nhân sâu xa. Trong tận thâm
tâm của người đàn bà này, có một lòng khắt khe nghiệt ngã đối với nhân loại, một
sự thản nhiên lạnh lùng trước những điều nguyện vọng và đau khổ của người đời.
Sự khắc nghiệt, bất khoan dung của cô đã làm cho nhiều người thất vọng đau khổ
trong những kiếp trước: Bởi vậy, thật là công bình mà thấy cô trải qua kinh
nghiệm thất vọng đau đớn trong kiếp này.
Người ta có thể tự hỏi rằng tại sao người đàn bà này
không bị trả quả báo về sự khắc nghiệt của cô hồi thời ở xứ Palestine, trong kiếp
đầu thai ở Salem. Câu hỏi này có thể giải đáp bằng hai cách khác nhau. Trước hết,
kiếp đầu thai ở Salem có lẽ có một mục đích khác hơn là sửa chữa tánh khắc nghiệt
của cô. Bởi đó, tánh khó khăn này đã bành trướng thêm trong khi cô theo đuổi một
công việc quan trọng khác ở kiếp nói trên. Lẽ thứ hai là thái độ khắc nghiệt của
cô ở Palestine có thể chưa rõ rệt lắm, và chưa biểu lộ bằng những hành động gây
tổn thương cho kẻ khác. Đó chỉ là tánh bất khoan dung lúc mới đầu, chưa đủ mạnh
để có thể gây nên một nghiệp quả lớn lao. Ngoài ra, mọi việc xảy ra trong đời
cô là một sự thử thách. Trong kiếp sống ở Salem, cô có thể là một người khoan
dung hay khắc nghiệt, tùy ý cô chọn lựa con đường tâm tính của mình. Nhưng cô
đã thất bại trước sự thử thách đó; cô càng tăng cường thêm tánh khắc nghiệt đã
có ở Palestine thay vì sửa chữa lại, và bởi đó cô tạo nên quả báo mà cô phải trả
trong kiếp này.
Trong những thói xấu đồng một loại với tánh bất
khoan dung và nghiệt ngã, có tánh hay chỉ trích. Trường hợp sau đây là một thí
dụ lý thú về quả báo gây nên bởi tánh hay chỉ trích. Đó là một người thanh niên
27 tuổi, làm thiếu úy trong quân đội, có tánh tự ti mặc cảm, và luôn luôn nghĩ
rằng mình bất lực, không làm nên trò trống gì. Chúng tôi không được biết những
lý do nào làm trở ngại sự phát triển cá tính của y thuở thiếu thời. Có thể rằng
y đã có một người cha hay người mẹ có thói hay công kích một cách vô lý; hoặc y
có một thân hình dị dạng, làm cho bè bạn trong lớp chế diễu nhạo báng. Chúng
tôi đưa ra những sự phỏng đoán trên đây là vì căn cứ vào cái quả báo hiện thời
của đương sự, vì trong cuộc soi kiếp, ông Cayce nói: "Ai gieo giống nào sẽ
gặt giống nấy. Vì anh đã chỉ trích kẻ khác, nên ngày nay anh phải bị chỉ trích
lại".
Cuộc soi kiếp cho biết rằng người thanh niên ấy
trong kiếp trước là một nhà phê bình nghệ thuật, thường có thói quen chỉ trích
một cách gắt gao, cay đắng, nghiệt ngã, mọi nghệ phẩm mà y không vừa lòng. Vì
trong quá khứ y đã gieo sự ngờ vực trong lòng kẻ khác, làm cho họ mất tin tưởng
về khả năng của chính mình, thì ngày nay đến lượt y phải bị cái quả báo tương
đương là thói tự ti mặc cảm.
Chúng ta thấy ở đây một khía cạnh mới của Luật Nhân
Quả vô cùng phức tạp, một khía cạnh rất quan trọng về mặt tinh thần, đáng để
cho ta suy gẫm. Tự nhiên những nhà phê bình chuyên môn chỉ gồm một số rất ít, nhưng
trên Trái Đất hiện nay người ta đếm có gần hai tỷ rưỡi những nhà phê bình tài tử,
tay ngang, nghĩa là không chuyên nghiệp. Có lẽ không một nghề nghiệp nào trên
thế gian có nhiều tay hành nghề tài tử như nghề này, họ phê bình và chỉ trích
thiên hạ một cách say mê thỏa thích, kể từ ngày họ mới tập nói cho đến ngày mà
Thần Chết khóa miệng họ lại dưới nấm mồ! Nghề này không cần bỏ vốn, và dễ làm
hơn ăn cơm! Ngoài ra, nó còn khác hẳn với mọi thứ tiêu khiển của người đời, đó
là một trò chơi mà người ta có thể thực hành ở ngoài đường hoặc trong nhà, suốt
cả năm này qua tháng nọ, mà chỉ cần dùng một khí cụ duy nhất, là một cặp lưỡi sắc
bén! Chỉ cần có hai hay ba người tụ họp lại, là cái trò chơi phê bình, chỉ
trích này bắt đầu!
Tuy nhiên, mặc dầu sự chỉ trích là môt trò tiêu khiển
không tốn kém, nhưng nó có thể bắt buộc ta trả một cái giá rất đắt một ngày về
sau. Nguồn tài liệu (đó là danh từ mà ông Cayce dùng để ám chỉ cái quyền năng của
ông) thấy rõ sự hành động của luật Nhân Quả trải qua dòng thời gian vô tận, thường
đưa ra những lời cảnh cáo nghiêm khắc và rõ ràng cho những người nào có cái tật
này. Thí dụ sau đây, trong hằng trăm những thí dụ khác, là một bằng chứng hiển
nhiên để cho ta dùng làm tài liệu suy gẫm:
"Chúng tôi thấy linh hồn này thường tỏ ra quá
nghiêm khắc trong sự chỉ trích kẻ đồng loại. Phải tốp bớt lại, vì những gì mà
ta chỉ trích ở kẻ khác, sẽ đến với ta dưới một hình thức nào đó".
Đó là một lời tuyên bố rõ ràng về luật quả báo, theo
đó một nguyên nhân gây ra trên địa hạt tâm lý sẽ mang đến một hậu quả tâm lý
tương đương. Điều này nhắc nhở cho chúng ta nhớ lại những lời răn dạy trong
Kinh Thánh Gia Tô. Đức Jesus có dạy rằng: "Ta nói cho các ngươi biết, mỗi
lời nói vô ích mà mỗi người thốt ra, họ sẽ phải trả lời trong ngày Phán Xét cuối
cùng", và kế đó là những lời răn: "Không phải những gì chui vào lỗ miệng
của một người, nó làm cho y bị ô nhiễm, nhơ bợn, mà là những gì từ trong lỗ miệng
của y chui ra!". "Ngươi chớ lên án nếu ngươi không muốn bị kẻ khác
lên án. Vì ngươi lên án kẻ khác như thế nào, thì đến phiên ngươi sẽ bị lên án
cũng y như thế đó!".
Lời răn trên đây, đối chiếu với luật quả báo mà
chúng ta phải thấy, có một ý nghĩa hùng hồn, mạnh mẽ và hợp lý trên phương diện
thực tế mà người ta chớ khá coi thường. Về những trường hợp kể trên, chúng ta
nên nhớ rằng chính cái nguyên động lực, và mục đích của mỗi hành động mới là
cái sức chuyển vận luật Nhân Quả. Không phải nghề phê bình văn nghệ nó làm cho
người thanh niên kia bị sa đọa trong kiếp trước, mà chính là cái thái độ bên
trong của y và sự ngờ vực mà y đã gieo trong lòng kẻ khác về tài năng của họ,
trong khi y hành nghề một cách cẩu thả. Người ta thấy một tình trạng tương tự
khi người lính La Mã ngược đãi những tín đồ đạo Gia Tô, như đã kể ở Phần 5.
Nghiệp của y gây ra không phải là vì y thừa hành chức vụ của người lính gác, mà
do bởi hành động tàn ác của y đối với những người không sức tự vệ đặt dưới quyền
sinh sát của y. Ở đây cũng như mọi trường hợp, chính cái tinh thần bên trong mỗi
hành động mới là cái nguyên động lực tạo nên nghiệp quả.
Trước đây, chúng ta thấy rằng những khuynh hướng độc
tài chuyên chế nguyên nhân là do những kinh nghiệm chỉ huy ở kiếp trước. Khả
năng lãnh đạo là một đức tính tốt, nhưng nó thường biến chứng thành thói chuyên
chế độc tài. Trong lịch sử, người ta thấy những người có chức vụ cao, nắm quyền
thế trong tay, thường lạm dụng quyền hành để thỏa mãn lòng tham vọng riêng của
mình. Những trường hợp lạm dụng quyền thế một cách trắng trợn và những quả báo
gây ra do những hành động đó, đều được thuật lại rất nhiều trong những tập hồ
sơ Cayce. Thí dụ, đây là trường hợp của một người có quyền thế trong thời kỳ
các vụ án phù thủy ở Salem. Y là một trong những viên chức có trách nhiệm trừng
trị, khủng bố những người đàn bà bị tố giác là hành nghề phù thủy. Tuy nhiên,
trong khi thừa hành chức vụ đàn áp khủng bố những người theo tà đạo để bảo vệ
thuần phong mỹ tục và bảo vệ tín ngưỡng Gia Tô, con người mô phạm và đạo đức giả
này lại lạm dụng quyền hành của mình để thỏa mãn điều sắc dục: Những người phụ
nữ bị giam cầm đều bị cưỡng bách phải thất tiết với y! Những tập hồ sơ cho biết
nhà đạo đức giả ấy đã đầu thai trở lại kiếp này. Hiện nay y là một thiếu niên
11 tuổi, con của một người đàn bà nghèo khổ, bị chồng bỏ rơi. Y thường bị chứng
động kinh rất dữ dội; trong lúc soi kiếp cho y, y đã liệt bại hết nửa thân mình
bên trái, và câm không nói được nữa. Y không thể tự mình mặc hay cởi áo quần,
hoặc ăn uống hay đi lại, tiểu tiện mà không có người dìu dắt. Hai vai của y đã
còng sau một cơn động kinh kéo dài suốt nhiều ngày, trong khi đó y bị chứng
phong giựt, mỗi ngày cách khoảng độ nửa giờ, y không thể nào giữ vững đầu trên
cổ được nữa, và không thể ngồi dậy được nếu không có người nâng đỡ.
Theo ông Cayce, bịnh động kinh thường là quả báo của
sự hoang dâm vô độ. Dầu sao, sự lạm dụng quyền hành trong trường hợp này là một
yếu tố quan trọng. Sự nghèo khổ và địa vị thấp kém của người mẹ y dường như là
một sự đảo lộn địa vị giàu sang quyền thế của y trong kiếp trước. Chứng động
kinh là cái hậu quả của sự cưỡng hiếp, dâm dục khi y lạm dụng quyền hành để thỏa
mãn thú tính.
Trường hợp sau đây là một thí dụ lạm dụng quyền thế
trong thời kỳ khủng bố đạo Gia Tô ở La Mã. Có một người tên Romus, làm quân
nhân trong đạo binh La Mã. Ngoài số tiền lương tháng, với cấp bậc khá cao của
y, y đã dùng thế lực để kiếm những món tiền khổng lồ. Cuộc soi kiếp không nói
rõ y dùng phương pháp nào, không biết là y biển thủ công quỹ hay dọa nạt để làm
tiền; nhưng y đã dùng phương tiện bất chính để mưu lợi, thâu được rất nhiều của
cải vật chất, nhưng lại mất mát nhiều về phương diện tâm linh. Trong kiếp hiện
tại, Romus bị nhiều đau khổ: Sự nghèo đói, lầm than, không nhà cửa, luôn luôn
theo dõi y suốt đời. Nghề thợ may của y không đủ sinh lợi để nuôi một vợ và năm
con. Chỉ nhờ sự giúp đỡ của cha mẹ y mà vợ chồng và gia đình y mới có thể sinh
nhai một cách tạm bợ và bấp bênh ở một khu phố nghèo nàn tại Luân Đôn. Trong
trường hợp này cũng vậy, kẻ lạm dụng quyền hành đã phải chịu những quả báo
tương đương với hành động quả báo của y gây ra. Tình hình tài chánh tuyệt vọng
của y phản ảnh những nỗi lầm than khốn khổ mà y gây ra cho kẻ khác trong kiếp
trước.
Dưới đây là một trường hợp khác về sự lạm dụng quyền
hành, cũng đáng được cho chúng ta ghi nhớ: Một người đàn bà nọ thuộc giai cấp
trưởng giả hồi thời Cách Mạng Pháp, đã tham gia cuộc nổi loạn chống giai cấp
quý tộc. Với tấm lòng thành thật tranh đấu cho một lý tưởng, bà đã thực hiện một
sự tiến bộ lớn về đường tâm linh. Nhưng sau cuộc Cách Mạng, khi dịp may đưa đến
bà đạt tới một địa vị quan trọng trong chánh phủ, bèn trở nên độc tài và lạm dụng
quyền thế chẳng thua gì những người mà bà đã tranh đấu chống lại trước kia. Cuộc
soi kiếp nói: "Hậu quả đưa đến, là trong kiếp hiện tại, linh hồn này phải
chịu dưới quyền sai khiến của kẻ khác, để đè nén bớt những khuynh hướng độc tài
và hách dịch của y trước kia". Hiện thời, người đàn bà này sống một cuộc đời
rất khó khăn, lúc soi kiếp, bà đã 40 tuổi, góa chồng đã mười năm và có một đứa
con gái nhỏ. Bà phải chiến đấu với nghịch cảnh để tư mưu sinh và nuôi con. Bà
đã tìm được việc làm trong một cơ sở cứu trợ nạn nhân thất nghiệp của chánh phủ
trong một thời gian nhưng tình trạng của bà vẫn bấp bênh. Sự cô đơn và thiếu
nguồn vui sống đã làm cho bà tuyệt vọng và chán nản. Tình trạng này không phải
là do sự ngẫu nhiên tình cờ: đó là cái phản ảnh đúng đắn của những sự đè nén áp
bức mà bà đã gây ra cho kẻ khác, khi lạm dụng quyền hành trong tay. Xét qua bề
ngoài, thì bà là nạn nhân của một tình trạng kinh tế khủng hoảng và một số mạng
hẩm hiu; nhưng xét về luật quả báo, thì bà chỉ là nạn nhân của chính mình.
Những trường hợp kể trên có thể giúp cho ta một cái
tiêu chuẩn quan trọng để tìm hiểu những nỗi khó khăn trắc trở của người đời
cùng những nỗi khổ đau của họ, và tìm ra những nguyên nhân xa gần, căn cứ vào
quả báo trong hiện tại. Khi nhà hiền triết Eschyle cách đây hai ngàn năm ở Hy Lạp
nói rằng: "Số mạng, tức là hạnh kiểm" ông ta đã thốt ra một câu châm
ngôn mà nếu ta nói ngược lại cũng vẫn đúng. Vì những trường hợp đã xét qua như
trên dường như chỉ rằng số mạng con người ngày nay, tức là phản ảnh cái hạnh kiểm
của y trong quá khứ. Đến đây, một vấn đề quan trọng được nêu ra, một vấn đề mà
bất cứ người nào học hỏi nghiên cứu và suy gẫm chính chắn về thuyết Luân Hồi,
cũng không khỏi nêu ra để tự vấn lấy mình. Nếu như sự nghèo khổ là những quả
báo cần thiết để giáo dục sửa đổi những kẻ hung dữ, độc ác, bất công theo định
luật Nhân Quả, thì tại sao người ta cần phải cố gắng hoạt động trong những công
việc cứu tế xã hội để làm gì. Phải chăng những cố gắng của ta để trợ giúp kẻ bần
hàn khốn khó, sẽ làm ngăn trở sự hành động của luật Nhân Quả?
Chúng ta nên hiểu rằng thuyết Luân Hồi không phải chủ
trương một thái độ nhắm mắt buông xuôi đối với những nhu cầu cấp bách của xã hội.
Những linh hồn cần phải học bài học nghèo nàn khốn khó, sẽ sinh ra trong một thời
kỳ lịch sử và trong một hoàn cảnh địa phương mà sự bất công của xã hội có thể tạo
nên cái quả báo nghèo khổ khốn cùng cần thiết cho bài học kinh nghiệm của họ.
Nhưng đồng thời, những người nào không cố gắng làm
việc để cải thiện đời sống của kẻ đồng loại, tức là họ phạm vào tội "thờ
ơ, chểnh mảng" (omission); còn những kẻ lợi dụng và khai thác kẻ đồng loại
vì mục đích ích kỷ, là những kẻ tích cực phạm tội (commision); hai thứ tội lỗi
này, có ngày họ sẽ phải trả quả.
Thuyết Luân Hồi, nếu hiểu một cách đúng đắn, sẽ
không thể dùng làm một thuyết để bào chữa cho những hành vi của kẻ bất lương.
Giáo lý mà thuyết ấy cho ta trước hết thuộc về địa hạt tâm lý, bởi vì nó nhắm
vào mục đích cải tiến linh hồn người cho tới mức Toàn Thiện. Nhưng giáo lý ấy
cũng nằm trong địa hạt xã hội, bởi vì mục đích tối cao của nó là tình thương;
và tình thương chính là cái mãnh lực mầu nhiệm làm tiêu tan mọi điều nghiệp chướng
và quả báo xấu xa, theo định luật Nhân Quả cai quản sự tiến hóa của con người.
Những Đạo gia quả quyết rằng hành động của con người
không thể nào sửa đổi được định luật của Vũ Trụ. Định luật Nhân Quả Công Bằng
cũng ví như nước, luôn luôn giữ mực bằng phẳng, quân bình. Dầu cho con người gặp
hoàn cảnh nào và dưới thời kỳ nào, điều đó không quan hệ, đó chỉ là cái khung cảnh
bên ngoài làm nền tảng và bối cảnh cho linh hồn đầu thai để học hỏi kinh nghiệm
ở cõi trần. Đối với một linh hồn đã chọn lựa nhũng hoàn cảnh đó, thì luôn luôn
có những phương tiện thích nghi để giúp cho họ sửa chữa những khuyết điểm và lầm
lạc bên trong của họ.
CHƯƠNG 12
NGUYÊN NHÂN CỦA QUÁI
TRẠNG TÂM LÝ
Ngày nay, nhiều người
đã quen thuộc với cái tên của bác sĩ Freud và danh từ tiềm thức. Tuy nhiên, nhiều
người không biết rằng bác sĩ Freud đã khám phá ra tiềm thức trong khi ông theo
đuổi những cuộc sưu tầm về giấc ngủ thôi miên. Vì những người ngủ mê trong giấc
thôi miên có thể nhớ lại những sự việc xảy ra từ thuở nhỏ mà họ đã hoàn toàn
quên hẳn trong lúc bình thường, nên ông Freud mới đưa ra giả thuyết rằng trạng
thái tiềm thức là một kho ký ức giữ gìn những tài liệu cũ mà người ta không thể
nhớ lại bằng cách nào khác. Về sau, ông Freud bỏ không dùng khoa thôi miên như
một kỹ thuật chữa bịnh nữa, vì trong nhiều trường hợp, nó không được hoàn mỹ,
và ông tiếp tục thí nghiệm những phương pháp khác để thám hiểm những vực sâu thẳm
của tiềm thức. Tuy thế, người ta cũng đã coi khoa thôi miên như là nguồn gốc của
khoa phân tâm học (psychanalyse).
Tron lĩnh vực tâm lý theo thuyết Luân Hồi, khoa thôi
miên có thể có một vai trò tương tự. Thần Nhãn của ông Cayce dường như chỉ rằng
một người trong giấc thôi miên có thể khám phá những kiếp trước của những người
khác. Một sự kiện quan trọng hơn nữa là dường như một người trong giấc thôi
miên cũng có thể nhìn thấy và sống lại những tiền kiếp của chính mình.
Những kinh nghiệm thụt lùi về quá khứ trong giấc
thôi miên chỉ rằng trong tiềm thức của một người, được giữ gìn ký ức của tất cả
mọi việc đã xảy ra từ khi y mới sinh. Một người trong giấc thôi miên, thụt lùi
về dĩ vãng đến năm y lên mười tuổi, khi người ta truyền lệnh cho y viết tên của
y, thì y viết với tuồng chữ của tuổi thơ ấu hồi y lên mười. Khi y thụt lùi về
năm lên sáu tuổi y viết với tuồng chữ còn non nớt hơn nữa; khi y thụt lùi lại
năm lên ba, y cầm viết chì vẽ nguệch ngoạc vài nét không có ý nghĩa gì cả. Hiện
tượng thụt lùi về quá khứ trong giấc thôi miên kể trên thường được thí nghiệm
trong những lớp giảng về khoa tâm lý ở trường Đại Học, và những sinh viên tâm
lý học đã quen thuộc với hiện tượng ấy. Nhà bác học Pháp De Rochas hồi thế kỷ
mười chín tuyên bố rằng với những kỹ thuật thụt lùi về dĩ vãng như đã kể trên,
ông có thể nhớ lại những kỷ niệm đã qua trong quá khứ. Quyển sách của ông nhan
đề "Những Kiếp Sống Liên Tục" (Les Vies Successives) không được coi
như một quyển sách khoa học, nhưng có lẽ một ngày kia nó sẽ được hoan nghênh
như một công trình tiền phong trên địa hạt tâm lý về thuyết Luân Hồi. Những
quái trạng tâm lý được xem xét bằng hiện tượng Thần Nhãn của ông Cayce, giải
thích tánh chất của trí nhớ và tiềm thức, và có vẻ xác nhận rằng tiềm thức con
người thật ra còn thâm sâu hơn là những điều mà các nhà phân tâm học có thể hiểu.
Một trong những quái trạng tâm lý lạ lùng nhất là sự sợ hãi. Những nhà phân tâm
học định nghĩa điều này như là sự sợ hãi quá độ, mà nguồn gốc là do bởi nhiều
tình trạng phức tạp gây nên. Sự sợ hãi dị thường này làm cho con người sinh
lòng thù nghịch, gây hấn, hoặc cảm thấy mình có tội lỗi rất nặng nề. Những xúc
cảm ẩn tàng này về sau biểu lộ dưới hình thức một sự sợ hãi vô lý và bất thường
đối với một vài sự vật ở ngoại cảnh, thí dụ như sợ giông mưa, sấm sét, sợ dao,
sợ nước... Có nhiều trường hợp; những kinh sợ đó được truy nguyên từ một việc xảy
ra trong một kiếp trước, làm cho y bị đau khổ hay thiệt mạng.
Một thí dụ lý thú là trường hợp của một người đàn bà
từ thuở thiếu thời đã sợ những gian phòng kín. Ngồi trong rạp hát, cô phải chọn
một chỗ ngồi gần chỗ cửa đi ra. Ngồi trên xe buýt, nếu xe chật chỗ và quá đông
người, cô bước xuống đợi chuyến xe khác. Trong những khi đi nghỉ hè, đi chơi ở
miền núi, cô rất sợ chui vào những hang, động, hầm hố hay bất cứ chỗ nào bốn bể
kín mít, không có ngõ ra. Người trong gia đình không ai hiểu lý do của thái độ
lạ lùng này, vì không ai có thể nhớ lại hồi thuở nhỏ đã xảy ra việc gì làm cho
cô có sự sợ sệt như vậy. Cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng trong một kiếp
trước, cô chui vào một cái hang, thình lình hang sụp lở, bị đè bẹp dưới đống
đá, sỏi, cát vụn, và chết ngộp. Ký ức về cái chết rùng rợn này ngày nay vẫn còn
in sâu trong tiềm thức của cô.
Một thí dụ khác là trường hợp của một người đàn bà nọ
có hai điều kinh sợ: Sợ dao bén và sợ những loài thú có lông, nhứt là những
loài thú nhà. Cô nổi cơn hoảng loạn mỗi khi có một vật bén nhọn ở gần bên mình
hay khi thấy ai xử dụng gươm dao... Cuộc soi kiếp cho biết trong một kiếp trước
ở Ba Tư, người đàn bà này bị giết vì một lưỡi gươm trong lúc chạy loạn. Còn việc
sợ thú có lông thì khó hiểu hơn, vì trong gia đình, người nào cũng có nuôi chó
hay nuôi mèo, người anh của cô lại thích nuôi thú. Nhưng mỗi khi cô nhìn thấy
con chó hay con mèo thì giựt mình kinh sợ như người gặp phải rắn độc. Hơn nữa,
cô không khi nào mặc áo choàng bằng da thú, hoặc cổ áo may bằng lông thú. Những
nhà tâm lý học có thể tìm căn nguyên sự sợ sệt của cô trong những sự giao tế với
người trong gia đình, thí dụ như lòng ganh ghét đố kỵ đối với người anh ưa nuôi
thú chẳng hạn, và giải đáp vấn đề ấy như là sự biểu lộ lòng thù nghịch của cô.
Tuy nhiên, những cuộc soi kiếp truy nguyên sự sợ sệt này từ một kiếp trước ở
châu Atlantide, khi đó cô đã trải qua một kinh nghiệm khủng khiếp về những loài
vật có hình thù ghê rợn. Cuộc soi kiếp cũng đã giải thích nhiều quái tượng sợ
hãi khác và truy nguyên ra từ những kiếp trước. Sự sợ hãi bóng tối của một người
nọ được giải thích rằng trong kiếp trước, y là một chánh trị phạm dưới thời
Louis 16 và bị giam cầm trong một đài cao ở Pháp cho đến khi chết bỏ xác trong
ngục tối. Một người nữa sợ dao bén; đến lúc truy nguyên ra thì được biết rằng
kiếp trước y đã trải qua một kinh nghiệm rùng rợn trong một phòng tra tấn ở
Pháp, và đã bị tra khảo bằng những thứ hình cụ khủng khiếp, gồm cả sự tra tấn bằng
hình cụ bánh xe (rouet). Một người nọ có những cơn hoảng sợ bất thần, dường như
y cảm thấy rằng ngày tận thế sắp đến! Cuộc soi kiếp truy nguyên sự sợ sệt này ở
một kiếp trước, vào thời kỳ một phần châu Atlantide bị sụp lở chìm xuống đáy biển.
Trong khi đó y đang ngồi một mình trên một ngọn đồi cao để xem sách, thình lình
cơn động đất làm rung chuyển trọn cả vùng chung quanh như trời long đất lở và y
nhìn thấy nước biển dâng lên bốn phía chung quanh ngọn đồi của y. Một người đàn
bà kia sợ thú dữ một cách lạ thường. Kiếp trước ở La Mã, người chồng bị tội và
bị bắt buộc phải đấu sức với loài thú dữ trong võ trường.
Hai người kia sợ nước một cách rất vô lý. Truy
nguyên ra thì được biết rằng kiếp trước họ đi tắm sông, bị giòng nước xoáy cuốn
đi và bị chết đuối. Một người nữa cũng sợ nước, được biết rằng quái trạng này
là do bởi trong tiền kiếp hồi thời đế quốc La Mã, y đã bị đắm tàu chết đuối
trong một cơn bão nổi lên ở giữa biển.
Khi chúng ta xét kỹ những trường hợp này theo quan
điểm tâm lý thông thường, chúng ta có thể tự hỏi rằng phải chăng tất cả những
thí dụ trên đây cũng có thể được giải thích một cách thỏa đáng bằng cách tìm ra
một nguyên nhân trong kiếp hiện tại. Thí dụ, người đàn bà sợ ngồi trong phòng
kín, có thể đã bị nhốt trong một phòng tối lúc lên bốn tuổi, nhưng ngày nay cô
đã quên mất việc đó. Do sự khêu gợi trong giấc thôi miên, người ta có thể đào xới
việc ấy trong ký ức đã lãng quên từ lâu và nhà tâm lý học có thể căn cứ trên
tài liệu đó mà hiểu những vấn đề xúc động thường gây nên các chứng bịnh loạn thần
kinh. Nhiều người đã có kinh nghiệm cùng một loại giống như trên, nhưng lại
không có sự sợ hãi một cách vô lý. Như vậy tại sao có người lại có sự thụ cảm đặc
biệt đó? Nếu tất cả những người đã trải qua những cơn xúc động tình cảm đều đâm
ra sợ ngồi trong phòng kín, thì trên thế gian, người thuộc về hạng này sẽ nhiều
đến nỗi người ta phải đóng cửa tất cả phòng điện thoại, buồng ngủ, những gian
phòng độc chiếc, và vài loại hộp đêm, như là những nơi hăm dọa sự thăng bằng của
tâm hồn, trí não và sức khỏe công cộng.
Trong tập hồ sơ Cayce, vấn đề này được giải đáp như
sau: Sự kiện rằng một đứa trẻ tỏ ra thụ cảm hơn một đứa trẻ khác trong một tình
trạng xúc động tâm lý nhất định, có thể là do kinh nghiệm ở một kiếp trước.
Hoàn cảnh tạo ra trong kiếp này là cái phương tiện làm thức động trở lại cái ấn
tượng kinh khủng đã bị vùi lấp trong ký ức. Theo thuyết Luân Hồi, chúng ta thấy
rằng tiềm thức cũng ví như một cái hộp có hai đáy, nó vốn thâm sâu hơn là người
ta tưởng trong lúc bình thường. Vài nhà tâm lý học, nhứt là Carl Jung, cảm thấy
rằng những lớp sâu thẳm trong tiềm thức cần được nêu ra để giải thích những
quái trạng về tâm lý mà người ta không thể giải thích được bằng cách nào khác.
Theo quan điểm của ông Cayce, mỗi người đều có những
ký ức tiềm tàng đột khởi từ một quá khứ xa xăm, do những kinh nghiệm của y đã
trải qua trong những tiền kiếp. Tất cả những sự sợ hãi, thù ghét, thương yêu và
những tình cảm vô ý thức của y đều là thành phần của một cái sản nghiệp tinh thần
mà y tự để lại cho mình, chẳng khác nào như người ta tích trữ của cải ngày hôm
nay để dùng lại cho một ngày về sau. Con người văn minh tân tiến ngày hôm nay
đã từng là một người dã man mọi rợ trải qua nhiều kiếp trong dĩ vãng, và bởi
đó, thật là một điều tự nhiên nếu y vẫn còn một vài thú tính mà y chưa tinh luyện
và loại trừ. Trong cái dĩ vãng xa xăm đó, chính y đã từng trải qua những điều sợ
hãi khủng khiếp trong rừng rậm, và những sự tàn nhẫn độc ác của loài người. Vậy
thì thật là một điều tự nhiên nếu ngày nay, thỉnh thoảng y vẫn cảm thấy những
cơn sợ hãi bất thường, vô lý, và những nỗi lo âu phiền muộn vô căn cứ. Chính y
đã từng thương yêu, ghét bỏ hay đố kỵ nhiều người khác mà y tiếp xúc trong dĩ
vãng: Vậy thì là lẽ tự nhiên nếu ngày nay y cũng lại cảm thấy đối với chính những
người đó, đã cùng đầu thai lại trong kiếp này những mối thiện cảm, thương yêu
hay thù hận, ghét bỏ một cách vô lý và không thể giải thích được lý do.
Những ký ức thuộc về kiếp trước có thể biểu lộ trong
kiếp này bằng những phương tiện khác hơn là những sự sợ hãi hay những quái trạng
tâm lý. Ông Cayce đã căn cứ trên thuyết Luân Hồi để giải thích hiện tượng về những
giấc mộng tái diễn trở lại nhiều lần. Một thí dụ lạ lùng về vấn đề này là của một
người đàn bà đưa ra câu hỏi sau đây: "Tại sao hồi thuở nhỏ tôi thường năm
mộng thấy cảnh tận thế, với những luồng mây đen bao phủ và tiêu diệt cõi thế
gian?" Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce trả lời rằng trong một kiếp trước ở
châu Atlantide, người đàn bà ấy đã làm nghề giáo sĩ và y sĩ, và đã chứng kiến một
trong những vụ thiên tai kinh khủng làm sụp đổ châu này dưới lòng biển sâu. Cái
ấn tượng rùng rợn đó vẫn còn in sâu trong tâm hồn cô đến nỗi nó thường xuất hiện
trở lại trong giấc ngủ trong kiếp này.
Một trường hợp lý thú khác là của một em gái nhỏ bốn
tuổi, thường làm cho mẹ nó lo âu vì mỗi đêm nó đều giựt mình tỉnh giấc, khóc la
bài hãi một cách vô cùng sợ sệt. Em nhỏ này đầy đủ sức khỏe và không có bịnh tật
chi. Mẹ nó bèn viết thơ cho ông Cayce để xin ông giải thích về quái trạng của đứa
bé. Cuộc soi kiếp cho biết kiếp trước em chết bất đắc kỳ tử trong trận Thế Chiến
Thứ Hai ở Pháp. Nhưng chỉ trong chín tháng sau, em đã đầu thai trở lại trong một
gia đình ở Bắc Mỹ. Trong khoảng trung gian ngắn ngủi giữa hai kiếp sống, những
kỷ niệm rùng rợn về chiến tranh binh lửa vẫn chưa xóa mờ trong ký ức của em và
thường xuất hiện trong giấc ngủ.
Những trường hợp kể trên không khỏi làm cho chúng ta
lại nêu ra câu hỏi về vấn đề trí nhớ. Nhiều người phản đối thuyết Luân Hồi thường
đưa ra lập luận này, là nếu có Luân Hồi thì tại sao chúng ta không nhớ lại những
kiếp trước? Điều này mới nghe qua thì dường như lạ lùng, nhưng thật ra nó không
lạ gì lắm nếu chúng ta cũng không nhớ được hết những việc gì đã xảy ra trong đời
chúng ta lúc còn thơ ấu hay trong thuở thiếu thời. Trí nhớ của con người là một
cái gì rất mỏng manh, tế nhị, và những sự việc trôi qua trong đời chúng ta chẳng
khác nào như nước chảy giữa dòng, cho nên khi nói rằng ta không nhớ một việc
gì, không có nghĩa là việc ấy không có xảy ra.
Nếu chúng ta hỏi một người bạn câu này: "Anh đã
làm gì vào đúng 10 giờ 26 phút buổi sớm mai ngày 19 tháng 4 năm 1939?"
Chúng ta có thể đem hết cả gia tài để đánh cuộc rằng y không thể nhớ từng chi
tiết rõ ràng như y đã làm gì vào ngày hôm đó, y mặc y phục như thế nào, nói những
chuyện gì, với ai... Việc y không nhớ rõ các việc đã xảy ra trong một ngày giờ
nhất định trong đời của y, không có nghĩa là y đã không trải qua những giờ phút
ấy.
Bởi đó, sự phản đối thuyết Luân Hồi bằng những lập
luận nói trên không thể đứng vững. Trước hết sự lãng quên là một hiện tượng rất
thông thường và rất tự nhiên của con người. Sau nữa, trí nhớ có một tính chất rất
đặc biệt là rất chóng quên phần chi tiết, mà chỉ giữ lại cái nguyên tắc đại
cương. Thí dụ: Mỗi người có học thức đều có thể nói rằng 7 lần 7 là 49, và 12 lần
12 là 144. Y không nhớ rằng y đã trải qua những giờ mệt nhọc vất vả trong lớp học
hồi thuở thiếu thời để làm những bài toán đó, nhưng khả năng suy tính và sự
thông hiểu toán pháp hãy còn tồn tại trong trí óc của y.
Những sự hiểu biết khác của con người cũng được giải
thích bằng cách đó, chẳng hạn như sự cẩn thận đề phòng khi ta đứng gần lửa, sự
dè dặt và sợ chó khi bước vào nhà người lạ; khả năng về âm nhạc, khiêu vũ, hay
sự thông hiểu, khéo léo của ta về bất cứ một ngành nào. Việc chúng ta biết đi
biết đứng chứng tỏ rằng có một thời kỳ chúng ta đã tập đứng, tập đi, nhưng
trong một vạn người, không có đến một người nhớ rõ những sự cố gắng vất vả khó
khăn mà y đã làm từ thuở ấu thơ để có thể đi đứng tự nhiên được như bây giờ.
Như vậy, sự lãng quên về phần chi tiết vẫn không làm mất đi trí nhớ về phần
nguyên tắc, và tất cả những khả năng và đức tính của con người trên phương diện
luân lý, trí tuệ, đạo đức tâm linh, đều là sự tổng hợp tất cả những kinh nghiệm
mà y đã trải qua trong những tiền kiếp, mà ngày nay đã quên mất những chi tiết.
Lý luận thứ hai mà người ta dùng để phản đối thuyết
Luân Hồi lại càng tế nhị hơn. Họ cho rằng thật không phải lẽ khi bắt buộc một
cá nhân phải chịu trách nhiệm về những hành động mà một cá nhân khác đã làm. Họ
cho rằng quả báo và sự trừng phạt chỉ có một ý nghĩa là khi nào kẻ phạm tội có
ý thức được và nhìn nhận tội lỗi của y. Sự trả lời của Đạo gia về lập luận này
căn cứ trên điều mà họ gọi là sự liên quan giữa cá tính và linh hồn.
Linh hồn bất diệt ví như một tài tử ở ngoài vòng sân
khấu, có thể nhớ rõ quá khứ, nhưng khi chuyển kiếp làm người, chẳng khác nào
như người tài tử đóng một vai trò nhất định, thì sự mầu nhiệm của luật Thiên
Nhiên khiến cho y không nhớ điều gì cả ngoài phần nguyên tắc đại cương của những
kinh nghiệm mà y đã thâu thập được trong các kiếp trước. Ví như anh tài tử khi
ngồi tại nhà có thể nhớ rõ tất cả những lớp lang của vở kịch Phụng Nghi Đình mà
y đã đóng, nhưng trên sân khấu, khi y đóng một vai trò nhất định, chẳng hạn như
vai Lữ Bố, thì y chỉ biết có một vai trò đó mà thôi chứ y không thể nghĩ đến
vai trò khác. Cũng như thế, linh hồn người chứa đựng ký ức của tất cả mọi sự đã
xảy đến cho y trong những vai trò của các nhân vật mà y đã từng đóng ở các tiền
kiếp. Lúc bình thường thì cá tính riêng biệt của y không nhớ được những kỷ niệm
đó ngoại trừ khi nào y dùng những phương pháp đặc biệt và bất thường để rút lấy
những kỷ niệm đó trong cái kho ký ức vô tận của linh hồn.
Lập luận chống thuyết Luân Hồi kể trên cho rằng thật
là không phải lẽ và trái với luân lý nếu một người bị trả quả và đau khổ vì những
hành động mà có lẽ y đã làm trong kiếp trước, nhưng ngày nay y đã quên mất,
không còn nhớ gì nữa. Lập luận này không thể đứng vững, cũng chẳng khác nào như
lý luận cho rằng việc một người lớn bị đau khổ vì những sự xung đột vô ý thức của
y từ thuở ấu thơ, cũng không hạp với luân lý.
Sự lãng quên, nó che khuất dĩ vãng và chỉ cho chúng
ta thấy có một phần hiện tại ngắn ngủi, là một điều cần thiết và che chở đối với
chúng ta. Ngoài ra những thí dụ về việc sợ hãi vô lý và những giấc mộng tái diễn
nhiều lần, người ta còn thấy trong những tập hồ sơ Cayce những quái trạng tâm
lý khác nữa. Thí dụ như những ảo ảnh ẩn hiện chập chờn, trong nhiều trường hợp
thường được truy nguyên từ những ký ức bất thường thuộc về kiếp trước. Có một
trường hợp, cuộc soi kiếp cho biết rằng những trung tâm bí yếu trong thân người,
tiếng Phạn gọi là Chakra (Luân Xa), tình cờ khai mở, làm cho luồng Xà hỏa
(Kundalini) đi xuyên qua những Luân Xa và gây nên những ảo ảnh hay ảo giác. (Luồng
xà hỏa Kundalini là một mãnh lực thần bí trong cơ thể con người nằm trong đốt
cuối cùng của bộ xương sống và có liên quan trực tiếp đến bộ phận sinh dục và
năng lực). Những cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết trong nhiều trường hợp, một
sự rối loạn thần kinh có nhiều nguyên nhân hoàn toàn thuộc về thể chất, và đã
được chữa khỏi một cách mầu nhiệm bằng các phương tiện sinh lý. Chúng ta đã thấy
trong Chương 2, trường hợp của cô thiếu nữ được chữa khỏi bịnh loạn trí nhờ nhổ
một cái răng cấm mọc ngược. Một thí dụ hiển nhiên khác là trường hợp của một
người thư ký bưu điện bỗng nhiên đổi tánh một cách lạ thường và thình lình trở
nên gây gỗ, buồn bực và hung bạo. Gia đình khuyên y đi khán bịnh và vào nằm bịnh
viện để điều trị. Các bác sĩ tuyên bố rằng y bị chứng khủng hoảng thần kinh, và
người ta bèn để y nằm riêng buồng kín. Vợ y yêu cầu ông Cayce dành cho y một cuộc
khám nghiệm bằng Thần Nhãn. Cuộc khán nghiệm cho biết y đã bị té ngã nặng từ
nhiều năm về trước, chạm mạnh vào xương hông làm đau tủy xương sống, và điều
này đã phản ứng toàn bộ Thần Kinh Hệ. Ông Cayce khuyên y hãy điều trị bằng
phương pháp nắn xương và trị bằng điện. Gia đình y nghe theo lời. Trong sáu tuần
lễ, bịnh nhân đã bình phục trở lại như thường, và người ta để cho y tự do trở về
nhà. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp loạn trí, cuộc khán nghiệm cho biết rằng
bịnh nhân bị tà ma nhập xác ám ảnh. Xưa nay người ta vẫn tin rằng một vài chứng
bịnh loạn thần kinh nguyên nhân là vì ma nhập. Những người đọc bộ Thánh Kinh đều
biết rõ chuyện đấng Christ đã đuổi tà ma ra khỏi xác của một người điên, và những
người Gia Tô giáo đều quen thuộc với vấn đề các vị Cố đạo Gia Tô vẫn tiếp tục
thực hành những phép đuổi tà (exorcisme). Vấn đề này tự nhiên là hoàn toàn xa lạ
đối với khoa Tâm lý học hiện đại, và những nhà chữa bịnh thần kinh ngày nay coi
nó như một điều dị đoan đã lỗi thời. Tuy nhiên, nếu người ta chấp nhận rằng
linh hồn người vẫn còn tồn tại sau khi chết, thì không có lý do gì mà cho rằng
những linh hồn bất hảo, lưu manh hồi còn sống ở thế gian, sau khi chết lại
không ám ảnh, khuấy phá hay nhập vào xác một người khác.
Để chữa bịnh tà, ông Cayce thường dùng phép điều trị
bằng điện, và khuyên bịnh nhân nên cầu nguyện, và tham thiền quán tưởng. Trong
một trường hợp, người bịnh được chữa khỏi trong vài tháng, chấm dứt sự ám ảnh của
những giọng nói thì thầm bên lỗ tai y, làm cho y sợ hãi đến phát bịnh. Trường hợp
này là do quả báo gây nên: Trong kiếp trước bịnh nhân đã dùng tà thuật để ám hại
kẻ khác.
CHƯƠNG 13
QUẢ BÁO ĐỐI VỚI HÔN
NHÂN
Vấn đề hôn nhân là
một vấn đề phức tạp và khó khăn nhất trong đời người. Hôn nhân là một nguồn hạnh
phúc vô tận nếu nó được thành tựu một cách mỹ mãn, nhưng nếu thất bại, thì đó
là một nguồn đau khổ rất lớn. Hôn nhân đem đến cho ta những cái cực đoan về
vinh nhục, sướng khổ của đời người, và giữa hai cái cực đoan đó có cả một loạt
những trạng thái trung gian, vừa khổ vừa sướng, vừa vinh vừa nhục.
Nói về phương diện pháp lý, hôn nhân là một hợp đồng
sống chung giữa hai người nam, nữ. Về phương diện nhân sinh, đó là một sự phối
hợp của nam và nữ tính, bản năng thúc đẩy của những nhu cầu sinh lý và tình cảm.
Hội Thánh Gia Tô coi hôn nhân như một nghi thức thiêng liêng. Khoa tâm lý coi
nó như một vấn đề xử thế và sinh hoạt. Kẻ ngông coi hôn nhân như một cái bẫy
chuột mà chỉ có những thằng ngốc mới chui vào.
Theo một sự định nghĩa rộng rãi hơn căn cứ trên thuyết
Luân Hồi, thì những quan điểm kể trên đều đúng, nhưng chỉ đúng có một phần. Nhà
tâm lý học Linhk định nghĩa hôn nhân là khiếm khuyết và bất toàn cùng góp sức với
nhau để tranh đấu cho hạnh phúc. Định nghĩa này sẽ gần sát hơn với quan điểm của
nền Minh Triết cổ truyền, nếu tranh đấu cho hạnh phúc cũng là cố gắng để tự cải
tiến lấy bản thân mình. Theo quan điểm rộng rãi này, thì hôn nhân là một cơ hội
cho hai linh hồn bất toàn bổ khuyết và giúp đỡ lẫn nhau để thanh toán những món
nợ nhân quả, rèn luyện những đức tính mới của linh hồn và tiến hóa trên đường
tâm linh.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã nhiều lần xác
nhận rằng không có một sự liên hệ quan trọng nào trong đời người mà lại do sự
ngẫu nhiên tình cờ. Vấn đề hôn nhân càng chứng minh cho điều này một cách triệt
để. Không có một cuộc hôn nhân nào bắt đầu từ con số không: đó là sự nối tiếp của
một câu chuyện đã bắt đầu từ lâu. Các cuộc soi kiếp cho biết rằng bằng cách này
hay cách khác, những người kết hôn thành vợ chồng đã có nhân duyên với nhau
trong kiếp trước. Đó là một điều lý thú. Trong những cuộc soi kiếp, ông Cayce
coi vấn đề hôn nhân như một điều tự nhiên của con người, và ông thường nói:
"Ừ! Hôn nhân là một việc tốt. Đối với một linh hồn sống trên thế gian, đó
là một cách sinh hoạt tự nhiên".
Có người hỏi: "Tôi có nên kết hôn trong lúc này
hay không?" Ông Cayce đáp: "Lúc nào cũng nên, nếu anh chọn được người
bạn trăm năm thích hợp. Điều đó tùy theo mục đích mà anh theo đuổi khi anh muốn
kết hợp với người ấy".
Một gia đình ấm cúng, đó là hình ảnh của trạng thái
điều hòa hạnh phúc mà tất cả mọi người đều mong muốn. Về điều này, ông Cayce
tuyên bố như sau với một người mà ông soi kiếp cho: "Sự thành công của anh
phải là cái tổ ấm, vì trên đời không có sự thành công nào lớn hơn nữa. Ít người
được thành công về cả hai khía cạnh nghề nghiệp và hạnh phúc gia đình. Nhưng hạnh
phúc gia đình mới là sự thành công lớn nhất, và người nào coi thường điều ấy sẽ
tự tạo nên những trách nhiệm nặng nề về sau. Vì gia đình, tức là cái biểu tượng
gần nhứt đối với nguyện vọng rốt ráo của linh hồn trong tương lai: đó là một đời
sống hạnh phúc trên Thiên Đàng. Bởi vậy, anh hãy làm sao cho gia đình anh là cái
hình bóng của cõi Thiên Đàng hạnh phúc!"
Vì gia đình là nơi người ta cùng theo đuổi một mục
đích chung với một mối tình thân hữu, nó là một cơ cấu thể hiện những mối liên
quan giữa con người với Tạo Hóa. Đó là bởi gia đình có một mục đích sáng tạo,
khi mà những đơn vị gồm trong đó đều hợp nhứt với nhau trong một lẽ sống và một
lý tưởng chung.
Những quan niệm trên đây không phải là mới lạ gì.
Tuy nhiên, những cuộc soi kiếp trình bày một quan điểm vừa tự do vừa tân tiến đối
với vai trò và định mệnh của phụ nữ. Có điều lý thú là vấn đề nam nữ bình quyền,
và quyền tự do của phụ nữ trong việc sắp xếp cuộc đời của mình, được coi như vấn
đề đương nhiên. Ý niệm về sự đương nhiên này biểu hiện rõ hơn trong những cuộc
soi kiếp về những trường hợp mà đương sự phải chọn lựa một trong hai điều: Nghề
nghiệp và hôn nhân. Thần nhãn của ông Cayce không chấp nhận quan niệm Phát xít
và độc tài đặt để vai trò của phụ nữ là ở trong gia đình, thờ chồng và nuôi
con.
Cũng như trong những cuộc khám bịnh, mà phương pháp
điều trị không tùy nơi một đường lối duy nhứt, thì ở đây cũng thế. Không hề có
một phép xử thế nhứt định cho tất cả mọi trường hợp về vấn đề hôn nhân. Những
nguyên tắc tâm lý và đạo đức bao giờ cũng vẫn giống như thế nhưng sự diễn đạt bằng
hành động cử chỉ có thể khác biệt nhau tùy trường hợp. Đối với vài phụ nữ, ông
Cayce khuyên nên lập gia đình; nhưng đối với những người phụ nữ khác, ông lại
khuyên họ nên theo đuổi một nghề nghiệp. Có vài người, ông khuyên họ nên hành
nghề trước đã, rồi sau sẽ lo lập gia đình. Có người thì ông khuyên họ vừa lấy
chồng vừa theo đuổi một nghề nghiệp. Đối với những người khác nữa, ông khuyên
hãy chọn một trong hai điều; vì họ không thể phụng sự hai chủ cùng một lúc.
Một thiếu nữ 18 tuổi, có tánh e lệ rụt rè và bất mãn
về cuộc đời, muốn biết xem cô có thể làm gì trong tương lai. Cuộc soi kiếp nhấn
mạnh rằng trước khi nghĩ đến hôn nhân, cô nên làm một công việc có tánh cách
săn sóc giúp đỡ các trẻ em. Cuộc soi kiếp cho biết: "Nếu linh hồn này tìm
cách tiến hóa cho con đường hôn nhân, thì cô sẽ bị thất vọng đau đớn, trừ phi
trước khi lấy chồng, cô đã có làm những công tác trợ giúp xã hội và săn sóc trẻ
em." Cuộc soi kiếp nói thêm rằng cô có thể giúp các em gái nhỏ trong trại
mẫu giáo hay một tổ chức tương tự.
Một nhà tâm lý học sẽ nhìn nhận rằng lời khuyên đó rất
lành mạnh, theo quan điểm thuần tâm lý. Dạy dỗ các thiếu niên nhi đồng là những
linh hồn kém kinh nghiệm hơn mình và làm việc chung với họ, là một phương tiện
rất tốt để cởi mở và phát triển tâm tính. Sự chỉ huy và lãnh đạo kẻ khác giúp
cho y mở đức tự tin, nếu không thì đức tính ấy không bao giờ có cơ hội phát triển.
Hôn nhân có thể hoàn toàn thất bại nếu cô ấy chọn một người bạn trăm năm không
xứng đôi vừa lứa, trong cơn tuyệt vọng của một tâm hồn khép chặt và cô đơn. Dầu
cho cô được một người chồng xứng đôi, sự thất bại cũng vẫn có thể xảy đến nếu một
trong hai người không có đủ sự hòa hợp cần thiết để đương đầu với những vấn đề
thích ứng với hoàn cảnh và những sự căng thẳng mà hôn nhân tạo nên. Bởi vậy
trong trường hợp này, phương pháp tốt nhất là hãy làm một công tác xã hội và
theo đuổi một nghề nghiệp trước khi lập gia đình.
Trong một trường hợp khác, một thiếu nữ có khả năng
được khuyên nên lập gia đình và đồng thời nên theo đuổi một nghề nghiệp; nhưng
cô chỉ nên kết hôn với một người nào mà hoàn toàn thích hợp với cô mà thôi.
Trong những kiếp trước, cô đã làm nhiều công việc khác nhau, và có khả năng về
các ngành điêu khắc, làm đồ gốm, ngành dệt vải, cùng với khả năng âm nhạc và
khiêu vũ,... Với cái di sản tài năng dồi dào đó, cô có đủ điều kiện trở nên một
nhà lãnh đạo, và sau khi đã nêu rõ các điều kể trên, cuộc soi kiếp cho biết
thêm: "Chúng tôi thấy rằng linh hồn này nên lập gia đình và đồng thời nên
theo đuổi một nghề nghiệp, với điều kiện là nghề nghiệp đó phải thích ứng với người
chồng mà y chọn lựa. Bởi vì nếu người chồng đó không phải là một người hoàn
toàn thích hợp với y và góp phần xây dựng vào công việc mà y sẽ làm, thì sẽ có
những sự bất đồng ý kiến và những sự thất vọng chua cay đến nỗi nó sẽ in sâu
vào tâm hồn y những vết thương nguy hiểm."
Trái lại, dưới đây là trường hợp lý thú của một nữ
tài tử trẻ đẹp và tài hoa, cô ấy yêu một người, và muốn biết xem cô có thể vừa
thành hôn vừa tiếp tục hành nghề tài tử của cô được không? Cuộc soi kiếp trả lời
không úp mở rằng: "Không được! Linh hồn này có đủ những đức tính cần thiết
để thành công hoặc trên sâu khấu hoặc trong gia đình; nhưng cô không thể thành
công trong hai việc cùng một lúc. Vậy cô hãy tự chọn lựa lấy!" Xem xét tỉ
mỉ những cuộc soi kiếp bề trên, thì người ta thấy rằng những lời khuyên luôn
luôn nhắm mục đích dìu dắt đương sự hướng về việc phát triển tâm linh. Nếu một
phụ nữ muốn theo đuổi một nghề nghiệp với những lý do ích kỷ như là muốn có nhiều
tiền, quần áo đẹp, địa vị cao sang, quyền hành chỉ huy, danh vọng cá nhân...
Thì nguồn tài liệu biết rõ cái tâm địa ấy và khuyên y nên hướng về việc lập gia
đình. Lời khuyên này được đưa ra không phải vì lý do tình cảm hay theo tục lệ
truyền thống về tánh cách thiêng liêng của gia đình và vai trò của phụ nữ. Nó
được căn cứ trên quan niệm rằng cái nguyên động lực và mục đích là những tiêu
chuẩn để xét đoán mọi hành động của con người; rằng một hành vi ích kỷ bao giờ
cũng không bằng một hành động vị tha, và những trách nhiệm mà người ta phải
gánh vác trong sự kết hôn và lập gia đình, dễ đưa con người ta tìm kiếm để thụ
hưởng riêng một mình trong một vài loại nghề nghiệp.
Bởi vậy, ông Cayce thường khuyên nhiều phụ nữ, dầu rằng
có tài năng, hãy nên tạo lập gia đình và nuôi con; vì đó là cái kỷ luật tốt nhất
để giúp đỡ cho họ khai mở những đức tánh tâm linh mà họ còn thiếu sót, để thắng
bớt lòng ích kỷ có ý thức hay vô ý thức trong kh họ theo đuổi một sự nghiệp. Một
mặc khác, một vài phụ nữ tài năng có thể thành thật muốn đem khả năng của mình
để phụng sự nhân loại. Đối với một phụ nữ thuộc về loại này thì một tổ ấm, một
người chồng, một gia đình có thể là những chướng ngại cho sự phát triển đầy đủ
những khả năng của họ. Bởi vậy ông Cayce thường khuyên họ hãy trì hưỡn việc lập
gia đình một thời gian hoặc nên phối hợp việc hôn nhân với việc hành nghề cùng
một lúc. Mục đích tối hậu, đối với những người độc thân cũng như đối với những người
có gia đình, là sự phát triển tâm linh; và dầu là đàn ông hay đàn bà họ đều là
những linh hồn bất tử và có quyền chọn lựa một tình trạng gia đình thích hợp nhứt,
có thể giúp họ theo đuổi sự phát triển tâm linh.
Ông Cayce coi cái quyền tự do sắp đặt cuộc đời của
mình không những là một quyền hạn trên địa hạt xã hội mà còn là một cái quyền
trên địa hạt vũ trụ. Nói theo danh từ triết học, thì cái quyền đó gọi là quyền
tự do ý chí (libre arbitre), nó đã từng là một đầu đề tranh luận gay go sôi nổi
trải qua nhiều thế kỷ. Một trong những điểm quan trọng nhất của thuyết Luân Hồi
là nó nhấn mạnh về sự hiện hữu của quyền tự do ý chí. Một điều lầm lạc rất thông
thường của những người tin tưởng ở thuyết Luân Hồi và Nhân Quả, là họ cho rằng
số mạng con người đã được định sẵn từ trước.
Một sự tin tưởng sai lầm như thế có những hậu quả rất
tai hại về mặt tâm lý và đạo đức tâm linh, vì nó làm xuống tinh thần và làm tê
liệt ý chí tiến thủ của con người. Thái độ buông xuôi, thụ động của người Ấn Độ,
là một dân tộc phần đông tin tưởng ở thuyết Tiền Định, đã chứng minh cho điều
tai hại của sự lầm lạc kể trên. Chúng ta nên biết rằng mỗi cái hắt hơi, mỗi vết
muỗi cắn, hoặc mỗi lần dự tiệc, không phải là đã tiền định hằng bao nhiêu thế kỷ
về trước. Phần nhiều những chi tiết về cuộc đời chúng ta đều hoàn toàn do chúng
ta định đoạt bằng tư tưởng và ý chí ngay trong lúc hiện tại. Thật ra, tất cả những
sự việc xảy ra trong đời chúng ta, từ việc quan trọng như việc hôn nhân đến việc
nhỏ mọn như việc ăn một cái kem chẳng hạn, đều do chúng ta định đoạt. Những sự
khó khăn trắc trở nó đè nặng lên vai chúng ta bây giờ đều là kết quả của những
lỗi lầm mà chúng ta đã gây nên trong quá khứ do sự định đoạt của chính mình. Những
sự khó khăn đó dường như đến với chúng ta từ bên ngoài, bởi vì chúng ta đã quên
những hành động của ta trong dĩ vãng và tầm nhãn quang của chúng ta quá ngắn ngủi
nên chúng ta không thể nhìn thấy sự liên quan giữa những hành động đã qua với
cuộc đời chúng ta trong lúc hiện tại. Như thế nếu chúng ta hiểu rõ định luật
Luân Hồi, thì sự tranh luận giữa hai vấn đề tự do ý chí và định mệnh đã được giải
quyết. Chúng ta sở hữu quyền tự do ý chí chẳng khác nào như một con chó bị buộc
dây nơi cổ; nói một cách khác, con chó được hoàn toàn tự do đi đứng, chạy nhảy
tùy theo ý muốn trong cái tầm của sợi dây dài hay ngắn. Cũng y như thế, luật
Nhân Quả định đoạt cái tầm sợi dây dài hay ngắn của mỗi người trong chúng ta;
chúng ta được hoàn toàn tự do trong cái tầm giới hạn đó. Vấn đề tự do ý chí này
kêu gọi sự chú ý của những người khảo cứu các tập hồ sơ soi kiếp của ông Cayce
về vấn đề hôn nhân và nhất là những cuộc soi kiếp cho những người đưa ra những
câu hỏi về bạn trăm năm của mình sau này. Các cuộc soi kiếp luôn luôn cho biết
rằng việc hôn phối giữa hai vợ chồng là do những sợi dây duyên nghiệp tạo nên;
tức là những cặp uyên ương sắp sửa đi đến hôn nhân đều là những người quen nhau
từ kiếp trước, nhưng họ đã quên và ngày nay họ gặp nhau trở lại để cùng thanh
toán những món duyên nghiệp nợ nần chung giữa hai người.
Tuy nhiên, trong vấn đề hôn nhân cũng như trong tất
cả mọi vấn đề khác, luôn luôn vẫn có quyền tự do ý chí và tự do chọn lựa. Dầu
cho giữa hai người có một sợi dây duyên nghiệp nó biểu lộ bằng một sự hấp dẫn
mãnh liệt, sự phối hợp của họ trong lúc hiện tại không phải luôn luôn là cần
thiết hoặc nên khuyến khích. Dưới đây là hai cuộc vấn đáp ngắn để diễn tả sự việc
kể trên:
1. - Hỏi: Tôi có nên kết hôn với anh chàng trai trẻ đang
tỏ tình với tôi lúc này chăng?
Đáp: Hai
người vốn có duyên nghiệp với nhau từ trước. Nhưng tốt hơn cô đừng nên làm hôn
phối với y.
2.- Hỏi: Cuộc hôn nhân của tôi với F.S. Có thể giúp
cho sự phát triển chung của chúng tôi chăng?
Đáp: Có
thể được, nhưng chúng tôi thấy rằng có nhiều người khác mà cô có thể phối hợp để
cùng nhau phát triển một cách điều hòa và phát triển hơn nữa. Đó là những người
mà kiếp trước cô đã có tạo nghiệp duyên từ hồi thời kỳ văn minh cổ Ai Cập. Dầu
sao, sự chọn lựa phải là ở tự nơi cô. Thật ra, cô có một món nợ nghiệp duyên với
F.S. Mà cô cần phải trả cho dứt, nhưng phương tiện dở nhứt là kết hôn với y!
Khi mà ông Cayce ngăn cản một cuộc hôn nhân, dầu cho
trong những trường hợp hai người có dây duyên nghiệp với nhau, người ta có thể
giải thích bằng nhiều cách. Trước hết, có thể rằng trong kiếp này những người ấy
cần phải học những bài học kinh nghiệm khác, quan trọng hơn là sự liên hệ giữa
vợ chồng. Cũng có thể rằng một người, hoặc cả hai, đều chưa đủ chuẩn bị sẵn
sàng để đối phó với vấn đề hôn nhân. Hoặc cũng có thể rằng cuộc hôn nhân trù liệu
là một hành phạt quá nặng nề đối với sự lỗi lầm trước kia của đương sự. Và sau
cùng, cũng có thể rằng hai người trong cảnh xa nhau, sẽ học bài tâm linh đó một
cách hữu hiệu hơn là trong sự sum họp vợ chồng.
Những cuộc soi kiếp thường không nói rõ lý do vì sao
trong mỗi trường hợp, đương sự nên đi đến hôn nhân hay là không nên. Dẫu cho
trong những trường hợp mà hôn nhân được coi như một giải pháp tốt đẹp, ông
Cayce cũng để cho đương sự hãy tự quyết định lấy. Ông ít khi nào đưa ra một quyết
định thế cho người trong cuộc. Thái độ căn bản đó đã hiện rõ ràng trong trường
hợp dưới đây của một cặp uyên ương đến hỏi ý kiến ông về việc họ có nên kết hôn
với nhau chăng? Cuộc soi kiếp cho biết rằng họ đã cùng nhau trải qua hai lần
kinh nghiệm về việc vợ chồng, một lần ở Ba Tư và một lần ở Ai Cập. Đó là cái lý
do của sự hấp dẫn mãnh liệt nó thu hút hai người lại với nhau trong kiếp này. Về
cuộc hôn nhân của họ, cuộc soi kiếp không nói dứt khoát, mà cho biết rằng:
"Nếu giữa hai người có một sự hòa hợp về lý tưởng và mục đích, thì hôn
nhân có thể là một kinh nghiệm tốt đẹp."
Người thiếu nữ hỏi ông câu này: "Mỗi người
trong chúng tôi có thể kết hôn với một người nào khác mà lại có hạnh phúc nhiều
hơn là nếu hai chúng tôi kết hôn với nhau chăng?" Ông Cayce đáp: "Nếu
cô hỏi như thế, tôi có thể trả lời bằng cách đưa ra cho cô danh sách của hai
mươi lăm hay ba mươi người khác. Còn đi đến hôn nhân hay không, thì đó là vấn đề
mà cô hãy tự giải quyết lấy."
Trong vài trường hợp, lời khuyên được đưa ra một
cách dứt khoát như sau:
Hỏi: Tôi có nên lập gia đình với người đàn ông đã
làm lễ đính hôn với tôi chăng?
Đáp: Không nên!
Tuy nhiên, trong phần nhiều trường hợp, cuộc soi kiếp
vẫn để cho đương sự được hoàn toàn tự do lựa chọn. Nhưng đồng thời, ông Cayce
cũng đưa ra những tiêu chuẩn để dìu dắt đương sự trong việc chọn lựa đó. Một
người đàn ông hỏi: "Cô M.L có thể là người vợ hiền và xứng đôi với tôi
chăng?" Ông Cayce đáp: "Điều đó phải tự Ông quyết định, chớ không phải
tôi! Ngoài ra giữa hai người có sự thích hợp với nhau về phần trí não và thể chất,
có sự hòa hợp về khía cạnh tâm linh hay không? Hai người có cùng chung một lý
tưởng, một mục đích hay không? Nếu không, thì này ông bạn hỡi... Hãy coi chừng?"
Trong thí dụ sau đây, một người đàn bà hỏi rằng
trong bốn người đàn ông muốn thành hôn với cô, cô nên chọn lựa người nào? Cuộc
soi kiếp cho biết: "Điều đó tùy ở nơi lý tưởng mà cô theo đuổi. Mỗi người
trong số bốn người đã có liên hệ với cô trong quá khứ, có người thì giúp đỡ
nhưng có người lại làm chướng ngại cho cô. Nếu tôi khuyên cô nên tránh người nọ,
hoặc nên chọn người kia, thì tức là đặt cô ở vào một vị trí sai lầm, và cũng đặt
luôn cả những người kia ở cái vị trí đó nữa. Chính cô phải lựa chọn lấy, và cái
tiêu chuẩn phải là hướng về một cuộc đời phụng sự. Cô hãy nhớ rằng tất cả mọi
người đều tự do".
Căn cứ vào những tài liệu kể trên, người ta có thể
suy diễn ra cái nguyên tắc chọn lựa người bạn trăm năm của mình. Người ta có thể
nói rằng phần nhiều những cuộc hôn nhân đều căn cứ trên sắc đẹp và sự hấp dẫn của
thể xác. Theo quan điểm những cuộc soi của ông Cayce, thì sự hấp dẫn về phần
trí tuệ và sự hòa hợp tinh thần. Một cuộc hôn nhân có hạnh phúc phải căn cứ
trên cái nền tảng tam giác đó, cũng như trên ba cái chân vạc vững chắc. Nếu một
trong ba khía cạnh đó bị thiếu sót, thì cuộc hôn nhân ấy bị què hết một chân!
Lý tưởng của một người phải tương xứng, hoặc ít nhất là xấp xỉ bằng nhau với
cái lý tưởng của người bạn trăm năm, trên mỗi phần của ba phương diện nói trên;
nếu không thì nguy cơ sụp đổ và thất bại chua cay đang rình rập hầu kề một bên.
Kết hôn một cách vội vàng cẩu thả, không suy nghĩ chín chắn về những điều quan
trọng kể trên, tức là tự chuốc lấy điều tai họa, khó khăn trắc trở vậy.
Khi chúng ta cảm thấy một sự hấp dẫn mãnh liệt đối với
một người khác phái, chúng ta hãy cẩn thận đề phòng. Cẩn thận tức là phải nhìn
thấy xa để khỏi tưởng lầm rằng một sự hấp dẫn thể chất và dục tình sẽ trở nên một
cuộc hôn nhân hạnh phúc, và coi chừng kẻo lại vô tình mà châm lửa vào cái ngòi
thuốc súng của một tình trạng quả báo sắp sửa nổ bùng!
CHƯƠNG 14
NHỮNG THIẾU PHỤ CÔ
ĐƠN
Khi người ta xét vấn
đề hôn nhân theo quan điểm Luân Hồi với những nhân quả, nghiệp duyên từ những
kiếp quá khứ xa xôi, người ta không khỏi tự hỏi rằng tại sao có những người lại
sống cô đơn mà không lập gia đình? Có nhiều phụ nữ, mặc dầu họ có một dung nhan
khá đẹp và những tính nết bình thường, nhưng cơ hội kết hôn không bao giờ đến với
họ. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã giải thích vấn đề này như thế nào?
Có một câu tục ngữ Pháp nói về vấn đề hôn nhân như
sau: "Hôn nhân cũng ví như một thành trì bị bao vây: Những người ở ngoài
thì muốn sấn vào, còn những người ở trong thì muốn chạy ra!" Câu này tuy
có vẻ trắng trợn, nhưng lại rất đúng. Hôn nhân đã làm cho nhiều người đau khổ,
đến nỗi người ta phải ngạc nhiên mà thấy rằng vẫn còn có rất nhiều những kẻ muốn
lọt vào lòng, không màng nghĩ đến những điều hăm dọa của nó đối với sự yên tĩnh
của tâm hồn, và chỉ nhìn thấy những điều vui sướng mà nó hứa hẹn! Mặc dầu người
ta đã biết rằng hôn nhân có những sự khó khăn đau khổ như thế, nhưng những người
độc thân nói chung thường cảm thấy rằng họ thiếu mất một cái gì quý báu, và cảm
thấy đời sống khô khan, vô vị: Họ đã bỏ lỡ một cuộc đời!
Tự nhiên là trong tình trạng đó, yếu tố tình dục
đóng một vai trò quan trọng. Sống độc thân, ít nhất ở những xứ gọi là "Văn
minh" có nghĩa là hoàn toàn tiết dục, hay tiết dục một cách tương đối với
người đàn ông. Ở xã hội Tây Phương ngày nay, sống độc thân, nhất là đối với người
đàn bà, là một sự "Lỗi thời" và là một điều "Bất hạnh". Những
trường hợp kể ra dưới đây đều là những trường hợp của phụ nữ, vì trong các tập
hồ sơ Cayce, phụ nữ tỏ ra băn khoăn thắc mắc về vấn đề này nhiều hơn đàn ông,
và những trường hợp đau khổ của họ cũng rõ rệt hơn.
Cô đơn! Có một cái gì tẻ lạnh ở trong danh từ này, một
cái gì buồn thảm không thể nói ra cho xiết. Cũng như câu "Hội ngộ lần cuối
cùng" có lẽ là câu nói buồn nhất trong ngôn ngữ của những kẻ yêu đương,
thì câu "Tôi sống độc thân" có lẽ là câu nói buồn nhất mà một người
thốt ra về cái hoàn cảnh của mình. Nếu không có một sự soi sáng tâm linh để tìm
ra giải pháp cho vấn đề này, thì sự độc thân có lẽ là một trong những vấn đề
khó khăn, tẻ lạnh nhất của đời người.
Dưới đây là trường hợp của một người đàn bà luôn
luôn cảm thấy khổ sở vì phải sống một cuộc đời quạnh hiu, đơn chiếc. Cô là một
người đàn bà Na Uy rất đẹp và duyên dáng, và làm thơ ký ở New York. Cô đã trải
qua hai đời chồng, người chồng trước qua đời sau khi thành hôn một thời gian rất
ngắn; sau đó tái giá một người khác lớn tuổi hơn nhiều, nhưng cuộc hôn nhân này
lại không có hạnh phúc, và cuộc ly dị đã đến rất mau. Cô không có con, tất cả
những người thân trong gia đình đã qua đời, và chỉ còn trơ trọi có một mình.
Nghề làm thư ký giúp cho cô có cơ hội tiếp xúc với nhiều người, nhưng đó chỉ là
những sự xã giao bề ngoài. Cô ước mong tái giá lần nữa, nhưng dịp may không thấy
đến và nay chỉ sống cô đơn. Khi yêu cầu ông Cayce soi kiếp, những câu hỏi của
cô biểu lộ một tâm sự buồn thảm và đau thương: "Tại sao tôi lại bị cô đơn
tẻ lạnh như vầy? Có một lý do đặc biệt nào khiến cho tôi không thể tìm thấy một
tấm lòng bầu bạn tri kỷ trong hôn nhân? Tại sao tôi lại bị thất bại như vầy?"
Cuộc soi kiếp cho biết rằng tình trạng cô độc này có một nguyên nhân sâu xa.
Hai kiếp về trước ở Na Uy, cô đã làm một việc lầm lạc tai hại nó gây nên cái
tình trạng bi đát hiện nay: Cô đã tự tử trong một cơn thất chí! Trong kiếp trước
đó, cô là mẹ của hai đứa trẻ nhỏ và chồng cô vì một lý do nào đó, bị trục xuất
ra khỏi làng. Sau khi sinh con thứ hai, cô quá thất vọng và nhảy xuống vực sâu
tự tử. Cuộc soi kiếp nói: "Bởi đó trong kiếp này, cô thường có những lúc
hiu quạnh, sầu thảm, hầu như không thể chịu nổi!"
Quả báo trong trường hợp này thật là rõ rệt. Trong một
lúc thất vọng, người đàn bà này đã tự tử, làm cho chồng con bị thiếu mất đi cái
tình trìu mến săn sóc mà họ cần nơi người vợ và người mẹ. Cô đã không đếm xỉa đến
bổn phận gia đình, tinh thần danh dự và trách nhiệm đối với chồng con, và bởi
đó cô tạo nên cái hoàn cảnh bơ vơ lạc loài trong kiếp này. Chỉ khi nào người ta
bị thiếu thốn tình cảm, thì người ta mới biết cái giá trị của nó. Đó là một trường
hợp đáng cho ta suy gẫm. Nó không những xác nhận sự minh triết của Hội Thánh
Gia Tô về việc cấm đoán tự tử như một tội nặng, mà còn biểu dương sự thật này
là chúng ta phải trả lời về mọi hành vi của mình, mọi cử chỉ lãnh đạm, thản
nhiên, bơ thờ, khinh bạc, mọi sự lạm dụng và hành vi trái đạo của mình trong đời
sống hằng ngày.
Trường hợp cô đơn dưới đây cũng gần giống như trường
hợp trên, tuy rằng với những chi tiết khác hẳn. Đó là một người đàn bà Anh, dạy
học ở một trường mẫu giáo và rất mong muốn lập gia đình. Cha mẹ đã qua đời từ
khi cô còn nhỏ; cô được các bà dì nuôi nấng, nhưng trong một bầu không khí lãnh
đạm khô khan và nghiêm khắc, mà kết quả là làm cho cô không thể hài hòa với những
người cùng đồng một lứa tuổi. Suốt đời cô cảm thấy cô độc đơn chiếc, cách biệt
với mọi người, và những khuynh hướng của một tâm hồn khép chặt đã biểu lộ nơi cô.
Cô đã trải qua một cuộc tình duyên, nhưng đó chỉ là một sự hấp dẫn về thể chất,
và mối tình này đã chấm dứt khi sự khác biệt nhau về tâm tính với người yêu
càng ngày càng biểu lộ rõ rệt.
Từ đó trở đi, cô cảm thấy cuộc đời dường như trống rỗng
và vô vị. Cô làm việc sốt sắng và thành công về phương diện nghề nghiệp; thông
minh lanh lợi và biết giúp đỡ người khác. Tuy nhiên, thỉnh thoảng có những lúc
cô đắm chìm trong một cơn thất vọng sầu thảm, kéo dài nhiều tuần và khó nguôi.
Trong những cơn khủng hoảng đó, cô thường nghĩ đến sự tự vẫn. Người ta không thể
tưởng tượng rằng một người đàn bà vừa có nhan sắc vừa khôn ngoan lại có thể bị
những cơn thất chí buồn bực sâu xa như thế.
Cuộc soi kiếp cho biết rằng bốn kiếp trước, cô sống ở
Ba Tư và đã tự tử khi những bộ lạc Ả Rập tấn công xứ này. Trong kiếp đó, cô là
con gái của một người tù trưởng trong xứ, và bị bắt làm tù binh của vị vương quốc
Ả Rập, cùng một lượt với những người khác. Sau đó, cô bị đem gả làm hầu thiếp
cho một viên phó tướng Ả Rập, sinh hạ một đứa con gái, và sau đó ít lâu bị mất
trí nên tự vẫn. Đứa con gái nhỏ sống vất vưởng không người nuôi dưỡng giữa bọn
tướng giặc, cho đến một khi có một vị giáo sĩ đi hành hương thấy vậy bèn động
lòng trắc ẩn đem em bé ấy về nuôi cho đến khi lành mạnh. Cuộc soi kiếp cho biết
rằng người mẹ đã tự tử chỉ vì không thể chịu khuất phục theo ý muốn của người
khác; và "Linh hồn này đã thất bại trong sự thử thách đó, cô tự tử chỉ vì
muốn thỏa mãn lòng tự kiêu của mình, chứ không phải vì lý do tự vệ để bảo tồn
trinh tiết, hay giữ gìn lý tưởng".
Cuộc soi kiếp cho biết rằng người đàn bà có tâm địa
kiếu căng, ngã mạn, tự tôn và thà rằng cô tự hủy mình chớ không chịu bị đè nén
khuất phục, mặc dầu cô còn có một trách nhiệm với đứa con gái nhỏ mới sinh ra. Xét
về tâm tính của cô trong kiếp này, nó biểu lộ dưới những cử chỉ tự do và hiên
ngang như đàn ông, người ta sẽ hiểu rằng có lẽ cái thói tự kiêu của cô trong kiếp
sống ở Ba Tư, chính là điều chướng ngại ngăn cách cô với phái đàn ông trong kiếp
hiện tại. Chính sự thiếu mềm dẻo, tế nhị, sự cứng cỏi ương ngạnh của cô làm cho
bọn đàn ông tránh xa và không muốn làm thân.
Điều lạ lùng là trong kiếp này, cô luôn luôn mong muốn
có con. Nếu các bà dì của cô không ngăn cản, thì có lẽ cô đã nuôi một đứa con
nuôi từ lâu. Có một điều cô mang theo từ kiếp trước, là cô thường nghĩ đến sự tự
vẫn. Từ khi có cuộc soi kiếp đưa đến sự giải thích hợp lý về tình trạng của cô,
cô không còn coi sự tự vẫn như một lối thoát nữa, vì hiểu rằng những gì mà cô
muốn trốn tránh trong lúc hiện tại, sẽ trở lại với cô trong một tương lai về
sau.
Tuy thế, trong một cuộc soi kiếp nữa, cô được biết rằng
cô còn có thể hy vọng một cuộc hôn nhân trong kiếp này, nhưng vào lúc quá tuổi
xuân; và trong khi chờ đợi, cô nên giúp đỡ bằng mọi cách những người mà cô tiếp
xúc trong đời sống hằng ngày. Khi hỏi rằng còn bao lâu nữa cô mới có được cái hạnh
phúc đó, thì được trả lời rằng: "Khi nào cô tỏ ra xứng đáng thì điều đó sẽ
đến." Có những lúc khác, cô được biết rằng hiện nay cô đang ở trong một thời
kỳ thử thách. Khi cô hỏi: "Tại sao trong khoảng năm năm vừa qua, cô không
hề gặp được một người đàn ông nào?" thì câu trả lời đó là: "Đó là để
thử thách cái mục đích chính của cô trong kiếp hiện tại."
Trên đây là hai trường hợp mà sự tự tử và bỏ con cái
bơ vơ trong kiếp trước đã gây nên cái quả báo cô đơn tẻ lạnh, và thất vọng
trong sự mơ ước thành lập gia đình trong kiếp này. Trong những tập hồ sơ Cayce,
còn có một trường hợp thứ ba; đó là của một nữ giáo sư âm nhạc ở tiểu bang
Texas, Hoa Kỳ; bà này cũng ở trong một tình trạng tương tự với những lý do giống
nhau: Cô đã tự tử trong kiếp trước dưới thời kỳ quân chủ ở nước Pháp.
Tuy nhiên người ta không thể căn cứ vào ba trường hợp
để đi đến một kết luận chung về quả báo của những người bị sống trong cảnh cô
đơn, độc chiếc, mà sự tự tử có lẽ là nguyên nhân gây ra trong kiếp trước. Ông
Manly Hall, tác giả quyển "Luân Hồi: Một lẽ Tuần Hoàn Cần Thiết Của Đời
Người," nói rằng quả báo của sự tự vẫn là trong kiếp sau, đương sự sẽ bị
chết vào lúc mà y ham muốn sống và yêu đời nhất. Trong các hồ sơ Cayce, không
thấy có trường hợp nào xác nhận điều đó, nhưng xét ra thì nó rất hợp lý.
Tuy nhiên, sự cô đơn và không chồng trong kiếp hiện
tại có thể có nhiều nguyên nhân khác. Thí dụ như trường hợp dưới đây cho ta thấy
có một lý do khác hẳn. Xét về trường hợp này, người ta nghĩ đến câu nói của ông
Oscar Wilde: "Trong đời chỉ có hai điều khổ: điều thứ nhất là muốn mà
không được; điều thứ hai là: được như ý muốn!"
Câu nói mâu thuẫn lạ kỳ này căn cứ trên sự kiện rằng
con người vì bởi vô minh nên thường xét đoán sai lầm giá trị của cuộc đời. Những
chuyện đời xưa kể chuyện một bà tiên cho một người kia được đưa ra ba điều ước
nguyện rồi y sẽ được như ý muốn. Câu chuyện ấy chỉ cho chúng ta thấy rằng con
người thường có những ước vọng dại dột điên rồ, và phải gánh chịu lấy hậu quả
tai hại của sự dại dột ấy. Câu chuyện ấy có một ý nghĩa tượng trưng rất thâm trầm
về hai sự kiện này: Một là phần đông người đời không biết rõ họ muốn gì; và hai
là sự đau khổ của con người là phần nhiều do bởi những sự ước vọng sai lầm, vì
thiển kiến, vô minh, và thiếu óc sáng suốt.
Trường hợp sau đây đã xảy ra hồi thời kỳ ở châu
Atlantide, và đương sự hãy còn chịu sự quả báo ở kiếp này. Đó là một người đàn
bà độ 40 tuổi, có một thân hình nặng nề và thô kệch, nhưng điều này một phần lớn
là do bởi sự thiếu thể dục và sinh hoạt cẩu thả. Bà không bao giờ dùng đồ trang
sức; quần áo mặc cũng rất xuề xòa, không theo thời trang. Bà chọn y phục theo
tiêu chuẩn tiết kiệm và ích lợi hơn là để chưng diện và làm đẹp. Bà có nét mặt
đều dặn và nếu được săn sóc ở mỹ viện thì bà có thể trở thành một phụ nữ rất đẹp.
Ngoài ra bà cũng có những cử chỉ duyên dáng, mặn mà, dễ thương. Trình độ văn
hóa chỉ đến mức tiểu học; bà làm việc trong các nhà máy và làm việc thủ công để
nuôi thân. Trong một cuộc trắc nghiệm tâm lý, bà có điểm cao nhất về mặt giao tế
xã hội và tôn giáo, vì những thích thú lớn nhất của đời bà là đọc các sách
Thánh Kinh tôn giáo, và làm việc cứu tế xã hội dưới một hình thức nào đó. Tuy vậy,
bà vẫn sống một cuộc đời cô độc, đơn chiếc. Những người trong gia đình không ai
cùng chia sẻ những quan niệm của bà về tôn giáo; trong đời bà, bà không hề biết
cái gì gọi là hương vị ái tình, hay tình yêu lãng mạn.
Nói về quan điểm tâm lý, người đàn bà này thuộc về một
trường hợp rõ rệt của sự "Phản ứng nam tính" (Protestation
masculine), nghĩa là từ chối hay phủ nhận vai trò nữ tính của mình. Sự phản ứng
này biểu lộ rõ rệt trong cái thái độ hiếu chiến và chống đối những gì thuộc về
nữ tính của bà; thí dụ như việc không chịu trang điểm hay làm đẹp để hấp dẫn bọn
đàn ông. Khoa tâm lý học có thể đưa ra một giải thích về thái độ đó, nhưng sự
giải thích này vẫn còn hãy rất thiếu sót. Cuộc soi kiếp bằng Thần Nhãn của ông
Cayce đã đưa ra sự giải đáp cho vấn đề này.
Trong kiếp cuối cùng của bà vừa rồi, bà là một thân
nhân của Thánh Jean Bastiste, và nhờ đó bà sinh trưởng trong một bầu không khí
đạo đức thâm nghiêm. Điều đó cũng là cái nguyên nhân làm cho bà có khuynh hướng
tín ngưỡng tôn giáo trong kiếp này. Trong tiền kiếp kế đó, bà sinh làm đàn ông ở
xứ Palestine thời cổ, tại đây y làm nghề thợ mộc và thợ đồng; điều này dường
như đã để lại cho bà những quan niệm thực tế và những khả năng về máy móc trong
kiếp hiện tại. Trong kiếp trước nữa, bà là một người đàn bà có địa vị cao ở
châu Atlantide, tại đây, một mối tình dang dở trong đời đã đem đến cho bà một sự
xáo trộn tinh thần và nhiều đau khổ. Kết quả là "Inh hồn này quyết định từ
nay về sau sẽ không bao giờ yêu một người nào có thể làm cho bà bị thất vọng và
gây cho bà những vết thương lòng". Và đó là cái nguyên nhân làm cho bà quyết
định sống tự do ngoài vòng trói buộc và đau khổ của tình trường. Bởi đó, tình
trạng độc thân và đơn chiếc của bà trong kiếp này không phải là do quả báo gây
ra. Trong trường hợp này không có sự liên hệ về nhân quả như trong những trường
hợp tự tử đã kể trên, mà chỉ có sự hành động của nguyên tắc liên tục, nó tùy
nơi sức mãnh liệt của sự ham muốn. Ngày xưa, bà đã quyết định thái độ là sẽ
không bao giờ yêu ai, nhất là không để cho tình cảm lôi cuốn bà đến bọn đàn
ông. Bà có quyết định này, không phải do một điều ước nguyện tâm linh hay do
lòng bác ái; mà là do ý muốn của bản ngã, quyết không bao giờ để cho bị hạ thấp
nhân cách của mình vì ban rải tình yêu cho kẻ khác. Trong giai đoạn trung gian,
bà không bao giờ tìm thấy có lý do nào để thay đổi thái độ. Và ngày nay, bà phải
chịu những hậu quả hợp lý cua cái quyết định đó, cho đến khi nào bà có thể thay
đổi ý định và thái độ xử thế về vấn đề này.
Cuộc soi kiếp không cho biết rõ rằng bà có hy vọng
thành hôn hay không trong kiếp này. Nhưng ít nhất, bà đã cố gắng để có thể đem
sự săn sóc và tình thương cho kẻ khác. Vì thiếu tình yêu, bà mới nhận thấy cái
giá trị của nó. Trong sự cô đơn, bà đã thấy sự chai lòng, sắt đá của mình xưa
kia là một điều tội lỗi cần phải được sửa đổi.
Nhà tâm lý học Carl Jung nói rằng mỗi người đều có đủ
hai phần nam tính và nữ tính trong bản chất của mình, nhưng cái nọ có phần trội
hơn cái kia, tùy theo trường hợp riêng của mỗi người. Linh hồn người hàm xúc những
khả năng tiềm tàng chưa khai mở thuộc về phái đối tượng. Sự kiện tâm lý này, mà
ông Carl Jung đã khám phá sau nhiều năm khảo cứu tìm tòi, hoàn toàn phù hợp với
quan niệm trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce về nguồn gốc và sự tiến hóa của
con người. Nam và Nữ đều có những đặc tính riêng; đại khái như uy lực, cương cường,
tranh đấu, hung bạo, thuộc về nam tính; sự hiền từ, dịu dàng, mềm mỏng, thụ động,
thuộc về nữ tính. Người thuần Nam tính là một người rất thiếu sót và bất toàn.
Bởi đó y cần được bổ khuyết bằng những đức tính thuộc về phái Nữ. Trong hôn
nhân, hai tính nam và nữ đều bổ trợ cho nhau đến một mực độ nào đó, do sự hội
hiệp của những đức tính tương phản nhau. Trong một cặp vợ chồng, mỗi người đều
dung hòa, bổ khuyết, sửa đổi lẫn cho nhau. Nhưng sự sửa đổi này vẫn hãy còn bất
toàn. Trong một kiếp sống ở thế gian, một người trội hơn về phần Nam tính không
đủ dung hòa bằng những đặc điểm nữ tính của người vợ y, và trái ngược lại.
Nhưng nhiều kiếp sống liên tục làm đàn ông và đàn bà giúp cho con người có những
kinh nghiệ bổ trợ dung hòa lẫn nhau. Một lần nữa, thuyết Luân Hồi đưa đến cho
ta một giải đáp về các vấn đề khó khăn: Chính do nhiều kiếp luân hồi sinh tử mà
con người mới có thể phát triển tâm linh một cách hoàn toàn.
Bất luận rằng những nguyên nhân của sự cô đơn hiu quạnh
là như thế nào, dầu cho đó là sự tự vẫn, sự quyết định không yêu ai, hay một lý
do nào khác, người ta phải nhìn nhận rằng tình trạng độc thân là một cơ hội để
tu tiến về phần nội tâm và về phương diện tiến hóa tâm linh. Muốn có bạn, ta phải
tỏ ra sự thiện chí và tình thân hữu; muốn được yêu, ta phải ban rải tình
thương. Bằng cách trau dồi tình thương và lòng bác ái để cho xứng đáng với nguyện
vọng mình, những kẻ cô đơn hiu quạnh có ngày cũng sẽ đạt được hạnh phúc của
tình yêu.
CHƯƠNG 15
THẮC MẮC VỀ VẤN ĐỀ
HÔN NHÂN
Khi hai người quyết
định làm bạn trăm năm với nhau, họ tạo nên một sự phối hợp về nhân quả, và cùng
chịu một sự tác động về tâm lý. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce về vấn đề hôn
nhân đưa ra những ý niệm tổng quan về việc chọn lựa bạn trăm năm, cùng những sự
liên hệ của hôn nhân trong dĩ vãng và tương lai. Chúng ta có thể nói rằng trong
vấn đề hôn nhân, cũng như mọi vấn đề khác, mỗi người đều dùng ý chí tự do của
mình trong việc lựa chọn bạn trăm năm. Sự lựa chọn này chẳng khác nào như người
ta lên xe ô tô buýt, một khi đã lên xe, người ta phải noi theo một lộ trình nhứt
định, một chiều hướng đã định sẵn, khác hẳn với lộ trình và chiều hướng của một
chiếc xe khác. Ngoài ra, những hoàn cảnh và tiện nghi trên xe có thể không hoàn
toàn đúng với sở thích của chúng ta. Người tài xế có thể là một người cộc cằn
thô tục, không khí trong xe nóng nực bực bội, những cánh cửa sổ rất khó mở, hoặc
người ngồi bên cạnh nói nhiều quá! Nhiều sự việc bất ngờ có thể xảy ra trên chiếc
xe số 92 mà không xảy ra trên chiếc xe số 41. Nhưng thái độ và cách cư xử của
chúng ta trong chuyến đi đều tùy ở nơi mình, và dầu cho hoàn cảnh xung quanh diễn
ra như thế nào, rốt cuộc chúng ta đều chịu trách nhiệm về cái thái độ và cách xử
thế của mình. Có nhiều trường hợp về hôn nhân mà những cuộc soi kiếp của ông
Cayce cho biết rằng do nghiệp quả gây nên.
Trong trường hợp lạ lùng sau đây, thật không có một
bi kịch nào đau thương cho bằng, và bàn tay sắp đặt của định mệnh thật rất công
bình và vô cùng mầu nhiệm. Đó là trường hợp của một thiếu phụ rất đẹp, thành
hôn vào năm 23 tuổi. Nàng có đôi mắt xanh đẹp, một mái tóc vàng dợn sóng xõa xuống
tận vai, một vóc người tầm thước, và một dung nhan mỹ lệ của một nữ tài tử điện
ảnh. Dầu cho vào năm 40 tuổi là lúc nàng được ông Cayce soi kiếp, nàng vẫn có một
vẻ đẹp tuyệt trần làm cho mọi người phải quay đầu nhìn và trầm trồ khen ngợi mỗi
khi nàng bước vào chỗ đông người. Những người bạn trai giàu có sang trọng có lẽ
phải lấy làm ngạc nhiên nếu họ biết được cuộc đời tư của nàng. Trong 18 năm kết
tình chồng vợ với một nhà kinh doanh thương mãi rất có danh thế và tiếng tăm,
nàng đã trải qua một kinh nghiệm rất khó khăn và thất vọng về phương diện tình
ái. Chồng của nàng bị chứng bịnh bất lực. Người ta thấy ở đời thường có những
người đàn bà không hề cảm thấy dục tình, và không bao giờ ham muốn những sự luyến
ái trong khuê phòng; đối với những người ấy thì tình trạng bất lực của người chồng
không phải là một điều chướng ngại quan trọng lắm. Nhưng đối với người thiếu phụ
kể trên, đẹp đẽ, duyên dáng, lãng mạn đa tình và tràn đầy nhựa sống, thì đó là
một cái thảm trạng thật sự! Thảm trạng này có thể giải quyết bằng một cuộc ly dị
và sẽ chấm dứt dễ dàng, nhưng người thiếu phụ này lại không thể dùng cái biện
pháp dứt khoát đó. Nàng vẫn yêu chồng và không muốn làm cho chồng đau khổ.
Trong những năm đầu tiên, có một thời kỳ nàng đâm ra
dang díu với những người đàn ông khác, không phải vì muốn phản bội chồng, nhưng
chỉ là để thỏa mãn sự nhu cầu về sinh lý và tình cảm. Nhưng lần lần, nàng chế
ngự được dục tình, môt phần lớn là nhờ sự học hỏi đạo lý và tập quan thiền quán
tưởng. Và cuộc đời nàng cứ trôi qua một cách bình thản như thế từ 18 năm nay,
trước khi cơn khủng hoảng xảy đến. Một trong những người yêu cũ của nàng trước
kia lại xuất hiện trên bước đường đời của nàng. Trong bức thơ gởi ông Cayce, nàng
kể chuyện như sau:
"Khi chúng tôi gặp nhau, ngọn lửa tình lại nhen
nhúm mãnh liệt trong lòng y, và tôi cũng đáp lại mối tình đó. Nhưng sức khỏe của
tôi lại giảm sút trở lại như hồi trước khi tôi bắt đầu học hỏi đạo lý. Có lẽ
tôi sẽ không ngần ngại mà tư tình với y nếu y không có gia đình. Tôi không muốn
bỏ chồng vì những lý do mà ông có thể hiểu, và cũng vì chồng tôi đã tiến bộ rất
nhiều về sự cải tạo tánh tình... Có thể rằng những cảm tình của tôi đối với người
đàn ông kia không phải là ái tình, mà là do tình trạng đặc biệt của gia đình
tôi gây nên. Dầu sao y cũng là người có tính nết khá. Y yêu tôi từ hồi tôi còn
nhỏ, nhưng tôi không hay biết gì cả và chỉ nghe mẹ tôi nói lại. Y không tỏ tình
với tôi vì y tự thấy còn chưa đủ sức lập gia đình. Nhưng về sau thì đã quá trễ,
vì tôi đã đính hôn với chồng tôi. Tất cả những hoàn cảnh cho tôi thấy sự hành động
của luật Nhân Quả, dường như có thể truy nguyên từ ba kiếp về trước của chúng
tôi. Thỉnh thoảng tôi đã cùng chung chăn gối với y, một lẽ là vì y quá yêu
đương và có thể thất vọng đến hủy mình. Sau nữa, tôi hy vọng rằng làm như vậy,
y sẽ được thỏa mãn dục tình, để cho y thoát khỏi sự cuồng vọng của yêu đương...
Sau cùng tôi đã đoạn tuyệt với y vì tôi không muốn đóng trò giả dối với vợ y và
gieo sự rối rắm trong gia đình y. Tôi quen biết và cũng có cảm tình với vợ y.
Xã hội sẽ lên án những mối tình vụng trộm như thế. Tôi không muốn làm khổ một
người nào. Y cũng không có sự ác cảm với vợ y, mặc dầu vợ y thường dày vò đay
nghiến y suốt nhiều tuần không dứt. Vợ y có thể làm sôi nổi thành to chuyện nếu
vợ y biết được câu chuyện ngoại tình này. Chồng tôi biết rằng tôi thỉnh cầu sự
giúp đỡ của ông, nhưng y không biết chi cả về chuyện này."
Đó là bức thơ của người thiếu phụ để giải bày tâm sự
thắc mắc trong cuộc đời của cô. Câu chuyện cũng khá bi ai; nhưng cuộc soi kiếp
còn tiết lộ nhiều điều bí ẩn trong cuộc đời quá khứ của người thiếu phụ, nó tạo
nên tình trạng hiện nay, và chỉ cho ta thấy hành động của Luật Quả Báo thật là
vô cùng đúng đắn và mầu nhiệm. Trong hai kiếp về trước ở Pháp, hồi thời kỳ xảy
ra cuộc Thánh Chiến (Croisades), người thiếu phụ này tên là Suzanne Merceilieu,
cũng là vợ của người chồng cô bây giờ. Ông Merceilieu, chồng cô trong kiếp đó,
là một trong những người có óc phiêu lưu, và cuộc Thánh Chiến ở vùng Cận Đông
xa xôi càng nung nấu chí giang hồ của ông. Và cũng như nhiều người khác có lòng
tín ngưỡng nhiệt thành, cuộc đời ông đã hoàn toàn tách biệt theo những nguyên tắc
đạo đức mà ông tin tưởng và đề cao! Theo quan niệm của ông, thì Thánh Địa Jérusalem,
nơi an nghỉ cuối cùng của Đấng Cứu Thế, phải được giải phóng khỏi sự xâm lăng của
những người "Ngoại đạo". Nhưng
còn vấn đề áp dụng tình bác ái mà đấng Cứu Thế đã dạy đối với vợ Ông, thì dường
như ông không bao giờ nghĩ đến!
Bởi đó, khi ông sửa soạn lên đường tham gia cuộc
Thánh Chiến để bảo vệ tôn giáo Gia Tô chống những kẻ "Ngoại đạo," thì
đồng thời ông cũng muốn bảo vệ một chuyện khác: đó là sự mất trinh tiết của vợ
ông. E rằng lòng tín ngưỡng tôn giáo của vợ ông không đủ nhiệt thành để giúp
cho bà ấy có một lòng hy sinh tuyệt đối, cũng như lòng hy sinh của chính ông,
và thay vì sự an ủi bằng cách nương mình trong hai cánh tay khỏe mạnh của một
gã đàn ông khác, ông ta bèn dùng những biện pháp cần thiết để làm cho một sự
"an ủi" như thể không thể thực hiện được. Hồi thế kỷ thứ 12 ở Âu
Châu, có một thứ khí cụ rất xảo diệu gọi là cái đai trinh tiết mà về sau người
ta cũng được biết ở Pháp vào năm 1935 và ở New York năm 1931, ở tại đây đã xảy
ra hai vụ án về việc có những người đàn bà bị chồng bắt buộc đeo cái đai trinh
tiết này. Cái đai này gồm có những mảnh sắt và da kết lại, bao bọc phần dưới
thân mình của người đàn bà, và được khóa lại bằng một ống khóa với một chìa
khóa riêng, để cho người đàn bà không thể giao hợp với người đàn ông nào khác.
Chính bằng cách đó mà ông Merceilieu muốn bảo đảm cho vợ ông khỏi ngoại tình
trong khi ông đi vắng. Cuộc soi kiếp của ông Cayce nói về vấn đề này như sau:
"Linh hồn này thuộc về hạng người chồng nghi kỵ và bị bắt buộc phải đeo một
khí cụ chướng ngại làm cho đương sự rất khổ sở bực bội."
Danh từ "bắt buộc" chỉ rằng bà Merceilieu
không thỏa thuận về việc này từ lúc đầu. Câu sau đó chỉ rằng về sau bà ấy còn
đau khổ hơn nhiều và "Quyết định sẽ trả thù khi có dịp thuận tiện. Sự cưỡng
ép phải giữ gìn trinh tiết làm cho bà ta có những quyết định tai hại; và chính
những quyết định này đã gây ra cho bà ta cái tình trạng hiện nay theo sự hành động
của luật Nhân Quả."
Bây giờ chúng ta hãy phân tách để tìm hiểu sự thưởng
phạt công bình của luật nhân quả trong trường hợp này. Người đàn ông trong kiếp
trước đã dùng loại khí cụ máy móc để gây sự chướng ngại khó khăn về tình dục
cho vợ y, bị trả quả bằng cách chính y bị bịnh bất lực trong kiếp này.
Thật không có quả báo nào đích đáng hơn nữa. Mới xem
qua thì hình như có sự bất công mà thấy rằng một người đàn bà bị áp chế một
cách tàn nhẫn như thế, lại phải chịu thiệt thòi về phương diện sinh lý đến hai
lần. Nhưng sự bất công đó chỉ là ở bề ngoài, vì tội lỗi con người gây ra không
phải chỉ là do những hành động bên ngoài mà thôi, nó còn do những ý tưởng, âm
mưu, ác ý, và trạng thái trong tâm hồn. Người đàn bà này đã bị chồng cưỡng ép một
cách bất công. Phản ứng của nàng đối với sự nghi kị và cách đối xử tàn nhẫn đó,
là một lòng căm hờn và ý nghĩ trả thù. Theo chỗ chúng ta thấy, thì lòng căm thù
đó không biểu lộ ra ngoài bằng cử chỉ, nhưng quyết định trả thù vẫn có. Trong một
trường hợp trước đây, chúng ta đã thấy rằng một quyết định có thể tồn tại suốt
nhiều thế kỷ. Quyết định trả thù của một người sẽ tạo ra một cơ hội thuận tiện
cho nàng thi hành ý định ấy. Trong kiếp này, người thiếu phụ ấy có một sắc đẹp
lộng lẫy, yêu kiều, và vô cùng hấp dẫn. Nàng kết hôn với một người đã làm khổ
mình trong một kiếp trước, và lần này có đủ mọi yếu tố cần thiết để làm cho chồng
phải phát điên lên vì ghen tuông, để hạ nhục chồng trước những bạn bè thân thuộc,
hoặc gây sự đau khổ cho chồng bằng một cuộc ly dị. Nàng còn muốn gì hơn nữa?
Còn cơ hội nào thuận tiện hơn nữa để trả thù một cách hoàn toàn, đích đáng, và
vẻ vang?
Nhưng, trong thời kỳ trung gian, nàng đã tiến triển
về phương diện tâm linh. Từ nay nàng không thể nào có ác cảm đối với bất cứ một
người nào. Những bức thư của nàng từ đầu đến cuối đều tiết lộ sự đa cảm. Nàng
có thể ngoại tình dang díu với người tình nhân cũ, một sự ngoại tình mà nàng có
thể dấu chồng một cách dễ dàng. Nhưng nàng không thể chịu nổi cái ý tưởng làm
khổ người vợ kia, khi người này biết được câu chuyện tình vụng trộm ấy. Bởi đó,
nàng cố giữ mình. Sức khỏe về thể chất và tình cảm của nàng cần có sự thỏa mãn
sinh lý nhưng vẫn yêu chồng và không đòi ly dị. Nàng hy sinh sự đòi hỏi của dục
tình, sắc đẹp và nhựa sống của thời son trẻ để giữ một lòng son sắc và trung
thành. Theo lời lẽ bí hiểm nhưng tất có ý nghĩa trong cuộc soi kiếp, "Nàng
đã gặp lại chính mình." Trong cái tình trạng hiện tại, nàng đã gặp lại sự
quyết định cũ hồi thuở xưa, và đã chuộc lấy lỗi cũ. Nàng đã thành công trong sự
thử thách tự đặt cho mình từ sáu thế kỷ về trước. Thánh kinh có nhắc câu Chúa
nói như sau: "Sự báo thù là ở trong tay Ta: Ta sẽ trả đủ. Vì mọi sự vay trả
đều phải được thanh toán sòng phẳng, và tai họa sẽ đến với kẻ nào chưa thanh
toán xong những món nợ cũ!" Hai câu Thánh Kinh trên đây ám chỉ rằng người
ta có thể tin cậy vào luật nhân quả để trừng phạt kẻ tội lỗi; rằng người ta
không cần phải băng khoăn về sự trả thù kẻ đồng loại bằng chính bàn tay của
mình. (Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là xã hội không có quyền tự bảo vệ chống
lại kẻ sát nhân. Sự lên án kẻ vi phạm luật pháp là một hành động hợp lý của xã
hội để duy trì nền an ninh công cộng và hạnh phúc của số đông người. Đó chỉ là
sự áp dụng một cách vô tư; hành động lên án không phải là một cử chỉ báo thù.)
Trong tập hồ sơ Cayce còn có một trường hợp khác về
thảm kịch gia đình cho việc dùng đai trinh tiết trong một kiếp của đôi vợ chồng
nọ hồi thời kỳ Thánh Chiến. Trong trường hợp này, luật quả báo hành động có hơi
khác một chút. Theo lời tường thuật của người vợ, thì chồng nàng là một người rất
kiên nhẫn, dịu hiền và thông cảm. Tuy nhiên, sau tám năm chung sống gia đình,
người đàn bà ấy vừa được 32 tuổi, vẫn luôn luôn sợ hãi sự chung chăn gối với chồng.
Người ta có thể hiểu rằng chỉ một sự kiện ấy cũng đủ làm cho tình trạng trở nên
khó khăn; nhưng nó còn phức tạp hơn vì người vợ lại thầm yêu trộm nhớ và say mê
một anh chàng ca sĩ sân khấu người Ý, bạn của gia đình nàng.
Cuộc soi kiếp giải thích lý do sự sợ hãi chung chạ với
chồng là do bởi kiếp trước người đàn bà này bị chồng cưỡng ép dùng đai trinh tiết
trong hồi thời kỳ người chồng phải đi tùng chinh trong trận Thánh Chiến. Luật
quả báo hành động thật đúng đắn vì người đàn ông này phải chịu hậu quả của hành
động kể trên bằng cách có một người vợ kém cỏi về đường tình dục và rất sợ
không muốn ngủ chung với y! Sự kiện rằng người vợ chịu khổ sở vì những rối rắm
trong gia đình gây nên bởi sự khủng hoảng tình dục kể trên cũng là một quả báo
của y. Đối với việc bị cưỡng ép mang đai trinh tiết hồi kiếp trước, thì phản ứng
của nàng là lòng căm thù. Và lòng căm thù tạo nên dây oan nghiệt. Cuộc soi kiếp
cho biết: "Những sự nghi nan và sợ sệt trong kiếp này là do bởi lòng thù hận
nung nấu tiềm tàng ở kiếp trước. Cái nhân xấu đó phải được tiêu trừ bằng sự
thông cảm và lòng ưu ái ở kiếp này. Vì bà phải biết tha thứ, nếu bà muốn được
tha thứ. "Sự say mê anh chàng ca sĩ nguyên nhân là do bởi một kinh nghiệm
khác: Người ca sĩ này là tình nhân của nàng trong một kiếp trước ở Đông Phương.
Đáp lại câu hỏi "Bây giờ tôi phải làm gì?" Cuộc soi kiếp nói:
"Bà hãy làm công việc gì phù hạp với cái lý tưởng mà bà đã lựa chọn."
Một lần khác, người ta lại thấy có yếu tố sợ hãi
trong một trường hợp với một nguyên nhân khác hẳn. Xét về sự đau khổ do quả báo
đưa đến thì câu chuyện này thật là bi đát; nhưng theo quan điểm phân tách tâm
lý, thì trường hợp sau đây trình bày những tài liệu rất hay để giúp cho ta
nghiên cứu sự tương quan của luật Nhân Quả, sự di truyền và ảnh hưởng của hoàn
cảnh.
Hồi đó vào năm 1926, người đàn bà viết như sau:
"Tôi quá đau khổ đến nỗi tôi sắp sửa phát điên
và tự tử. Tôi là người đàn bà vô phước nhất đời, và để làm dịu bớt đau khổ, tôi
phải dùng chất ma túy. Mẹ tôi là người đã chịu đau đớn vô ngần vì đẻ khó hết
sáu lần. Suốt đời tôi đã từng nghe mẹ tôi nói về sự đau đớn khi sinh đẻ. Vì vậy
khi tôi có chồng cách 18 năm nay đến giờ, tôi sợ mang thai đến nỗi tôi phải xa
chồng yêu quý của tôi vì tôi không thể chung chạ được với y. Tôi đã cầu nguyện;
tôi đã áp dụng thử khoa tâm lý, khoa chữa bịnh thần kinh, thậm chí đến khoa học
Công giáo... Nhưng không kết quả. Ông hãy xem tôi còn hy vọng nào chăng? Tôi muốn
có con và tôi vẫn yêu chồng, nhưng sự chung chăn gối làm cho tôi sợ hãi, và bây
giờ thì tệ hơn bao giờ hết, vì như tôi đã nói, tôi sẵn sàng tự tử. Tôi vừa muốn
tự vẫn trong tuần này, thì nghe nói về công việc của ông làm... "
Cuộc soi kiếp truy nguyên tấn thảm kịch của người
đàn bà này ở hai kiếp trước. Trong kiếp đó nàng sống một cách ích kỷ, xa hoa và
say mê thú vui vật chất dưới thời hoàng triều nước Pháp. Đó là một cuộc đời nhộn
nhịp vui tươi, nhưng nàng đã gieo hột giống cho tấn thảm kịch nối liền theo
sau: Cùng với những nhà khai thác thuộc địa đầu tiên đến Bắc Mỹ Châu, nàng sinh
hạ được sáu đứa con và về sau nhìn thấy tất cả sáu đứa con bị thiêu sống. Cuộc
soi kiếp: "Linh hồn này không dứt sợ sệt suốt đời nàng kể từ khi đó. Nàng
đã mất tin tưởng nơi đấng Thiêng Liêng và nuôi lòng oán hận Chúa Trời vì không
che chở cho nàng và cho các đứa con. Bởi đó trong kiếp này nàng sợ có con, và
chịu mọi hậu quả của sự sợ sệt đó." Tấn thảm kịch xảy ra hồi thời kỳ khai
thác thuộc địa ở Bắc Mỹ có thể hiểu được. Vì chúng ta biết rằng chỉ có sự thất
bại về vật chất, người ta mới quay trở về những vấn đề tâm linh. Nhưng trong
khi nàng đang phải trả quả báo cũ, thì vô tình lại gây thêm nghiệp quả mới. Dầu
cho đối với một người đàn bà ích kỷ, việc phải nhìn thấy sáu đứa con chết thiêu
là một sự đau khổ rất lớn. Nhưng nàng không vượt qua nổi cơn thử thách đau khổ
này. Y phải chọn một trong hai điều phản ứng: Một sự đành cam số phận với một
lòng thương nảy nở dồi dào; hoặc một sự sợ hãi với một tấm lòng đầu oán hận;
nàng đã chọn lựa cái phản ứng sau này.
Trong số những ý nghĩ mà người ta có thể có đối với
tai họa xảy đến, chẳng hạn như: "Tai họa này đến với ta là do ý muốn của
Thượng Đế. Ý muốn đó tuy khó lường, nhưng chắc hẳn là rất công bình". Hoặc là: "Tai họa này đến với ta là do sự
bất công của một đấng Thượng Đế tàn nhẫn và độc ác". Hoặc là: "Do sự
tình cờ may rủi của một cái vũ trụ khô khan không mục đích và không có Thượng Đế".
Thì người đàn bà ấy đã lựa chọn cái ý nghĩ cuối cùng.
Và như thế, nàng còn có một bài học cần thiết phải học
thuộc là: "Một tình thương bác ái bao la sẽ đánh đuổi sự sợ sệt".
Nàng phải dứt bỏ cái quan niệm ích kỷ và duy vật đối với cuộc đời; phải tập mở
lòng thương rộng lớn bao la để thương yêu người chồng; để thương yêu những linh
hồn sẽ đầu thai và chọn nàng làm mẹ; để kính yêu cái quyền năng sáng tạo,
thiêng liêng mà trời phú cho người đàn bà làm vợ và làm mẹ. Nói tóm lại, để
thương yêu tất cả với tấm lòng bác ái vô biên đến nỗi những sự sợ hãi về sự đau
đớn của thể xác không thể nào biểu lộ được nữa.
CHƯƠNG 16
NGOẠI TÌNH VÀ LY DỊ
Trong tất cả những
xứ theo chế độ một vợ một chồng, thì sự ngoại tình là một việc vẫn thường xảy
ra. Sự giải thích căn bản của hiện tượng này có lẽ là vì lý do sinh lý, theo
như câu ngạn ngữ dưới đây của một tác gia vô danh đã biểu lộ tình trạng ấy: Higamus,
pigamus (Nam đa thê) Hogamus, pogamus (Nữ nhất phu).
Trong những nguyên nhân của vấn đề ngoại tình, ngoài
yếu tố sinh ra lý lẽ tất nhiên còn có những yếu tố xã hội và tâm lý khác nữa.
Nhưng nếu muốn người ta áp dụng thuyết Luân Hồi, thì thật là một điều lý thú để
tìm hiểu xem sự ngoại tình có thể là do vấn đề nhân quả hay không? Những tập hồ
sơ của Cayce có ghi chép ba trường hợp đáng kể mà sự ngoại tình dường như do
nhân quả gây nên.
Trường hợp thứ nhất là của một thiếu phụ có hai con,
mà người chồng đi ngoại tình với một người đàn bà khác trong tám năm. Người vợ
chỉ biết được việc ấy trong hai năm sau cùng. Trong cuộc soi kiếp, nàn hỏi tại
sao phải chịu một sự phụ bạc đau đớn như thế? Câu trả lời là: "Đó là trong
kiếp trước bà đã ngoại tình với một người đàn ông khác."
Trường hợp thứ hai là của một phụ nữ phản bội chồng
một cách trắng trợn trong kiếp trước, dưới thời Hoàng Triều trong nước Pháp. Hiện
nay nàng đã sống lại những hành vi tương tự với người chồng nàng bây giờ, người
này chính là tình nhân của nàng trong kiếp trước.
Trường hợp thứ ba là của một người đàn bà mà người
chồng trong năm đầu tiên sau khi thành hôn, bắt đầu chè chén say sưa và chơi bời
đàn điếm. Có nhiều lần, y lại đem người đàn bà khác về nhà. Người vợ vẫn trung
thành và sống chung với chồng, khi chồng nàng không đem tình nhân về nhà; rốt
cuộc nàng lại mắc phải bịnh phong tình do người chồng sang qua. Cuộc soi kiếp
truy nguyên cái thảm trạng của người đàn bà này ở kiếp trước. Trong kiếp trước,
nàng là đứa con hoang của một người thủy thủ Mỹ và một người đàn bà Nhật. Có lẽ
sự kiện này gây cho nàng cái ý niệm rằng nàng là một kẻ ngoài vòng pháp luật.
Khi lớn lên, nàng tự thả trôi theo một cuộc đời chơi bời trụy lạc. Không bao
lâu, nàng đã gieo rắc bịnh phong tình cho nhiều người đàn ông khác. Cuộc soi kiếp
nói: "Bởi những nghiệp xấu gây ra đã đem lại quả báo cho đương sự trong kiếp
này".
Nói tóm lại, những trường hợp kể trên dường như chỉ
rằng sự phản bội của một người chồng hay vợ là do nhân quả gây nên. Những thí dụ
đó không phải để chứng minh rằng tất cả mọi trường hợp ngoại tình đều là do quả
báo. Việc Dũng phản bội Tuyết có thể do nơi quả báo mà Tuyết phải chịu vì Tuyết
đã phản bội Sơn trong một kiếp trước; nhưng dầu sao sự ngoại tình của Dũng cũng
có thể do những khuyết điểm trong tâm tính của Tuyết bây giờ. Sự ngoại tình rất
có thể chỉ là một phản ứng nhất thời đối với một tình trạng hiện tại. Muốn biết
xem một trường hợp ngoại tình có phải là do nhân quả hay không, nếu chúng ta
không có Thần Nhãn để xem quá khứ, thì ta cần phải xét cả những yếu tố lỗi lầm
hay khuyết điểm của người vợ hay người chồng lúc hiện tại, nó làm cho đương sự
đi tìm nguồn an ủi ở một người tình nhân khác.
Theo luật nhân quả, nếu một người đã ngoại tình
trong quá khứ, thì phải chịu quả báo tương đương trong hiện tại. Chỉ bằng cách
đó mà người ta có thể phát triển những đức tánh trung thành và tình thương đối
với kẻ khác. Chính vì bởi cái lý do cần thiết đó trong sự giáo dục và đào luyện
tâm tính, mà những cuộc soi kiếp của ông Cayce nhiều khi khuyên không nên ly dị.
Nếu một người phải học một bài học tâm linh trong một cuộc hôn nhân đau khổ,
thì nàng không có lợi gì mà đoạn tuyệt và trốn tránh, vì sớm hay muộn gì, người
ấy cũng phải tự tạo lấy một sức mạnh tinh thần cần thiết để đối phó với nghịch
cảnh đó.
Tuy nhiên, những cuộc soi kiếp không hề ngăn cấm sự
ly dị một cách tuyệt đối, mà có nhiều trường hợp lại tán thành sự ly dị. Những
tiêu chuẩn để xét đoán xem một trường hợp ly dị là nên hay không nên, dường như
có hai loại: Bổn phận đối với những đứa con và bổn phận giữa hai vợ chồng với nhau.
Những trường hợp mà ông Cayce khuyên nên ly dị một cách rõ rệt thường là những
trường hợp mà hai vợ chồng không có con. Hoặc nếu có con, thì đó là những trường
hợp mà sự ly dị sẽ có lợi cho những đứa con; những trường hợp mà bài học nhân
quả đã được thấm nhuần; hay là những trường hợp mà một trong hai vợ chồng không
đối phó nổi với hoàn cảnh và lôi cuốn cả hai người xuống vực sâu.
Một trường hợp điển hình là của một người đàn bà ở
tiểu bang New Jersey, 49 tuổi, không có con, và trong hôn nhân không có hạnh
phúc. Cuộc soi kiếp khuyên nàng nên bỏ chồng và nên dùng khả năng của mình để
đi dạy học. Cuộc soi kiếp nói: "Hôn nhân là một việc tốt, đó là một đời sống
tự nhiên cho một linh hồn ở trên thế gian. Nhưng khi nào đời sống giữa vợ chồng
thiếu sự điều hòa đến nỗi làm ngăn trở sự thực hiện những mục đích căn bản của
cuộc đời, nó là cái lẽ sống của một linh hồn ở cõi trần, và nếu sự mất điều hòa
ấy quá rõ rệt, không thể sửa đổi được nữa, thì tốt hơn là hai người nên phân ly
nhau. Hãy nên biết tự trong thâm tâm rằng bà nên thực hiện công việc mà bà có bổn
phận phải làm ở cõi trần. Tuy rằng bà bắt đầu hơi trễ, nhưng bà còn có thời giờ
làm được nhiều việc bằng cách dạy dỗ những em gái trẻ thơ... ".
Một thí dụ trái ngược hẳn với thí dụ trên, là trường
hợp của một người đàn bà lớn hơn chồng đến hai mươi tuổi. Giữa hai người có một
sự bất hòa rất lớn; người chồng say sưa chè chén quá độ, đánh đập vợ con và có
một cách cư xử rất thô bỉ. Cuộc soi kiếp không có nói đến vấn đề quả báo trong
trường hợp này, nhưng không khuyên hai người ly dị. Cuộc soi kiếp nói: "Giữa
hai người đã xảy ra những xung đột và bất đồng ý kiến. Hai người đừng tìm cách
tránh xa nhau, mà hãy có một thái độ thản nhiên, hòa hưỡn với nhau. Đừng để ý quá
nhiều đến những sự khinh rẻ hay trách móc, giận hờn; mà hãy biết rằng thật ra
bà chỉ gặt hái những gì bà đã gieo. Vậy bà hãy cố gắng săn sóc giúp đỡ chồng
trong mọi trường hợp và làm cho người chồng tất cả những gì mà bà muốn chồng bà
sẽ làm cho bà... ".
Người ta có thể nghĩ rằng trong trường hợp này,
đương sự có một bài học nhân quả cần phải học, hay là một món nợ quả báo cần phải
trả. Vì không có đủ bằng chứng soi xét bằng Thần Nhãn về những sự việc xảy ra
trong các kiếp trước, người ta nhìn nhận rằng thật không dễ gì mà biết được lúc
nào là lúc nên đoạn tuyệt và ly dị. Có một định luật quân bình trong vũ trụ nó
hành động một cách thường xuyên, và dù cho ta có những hành động ích kỷ như thế
nào, không có cái lò lửa nào để đốt tan sự ích kỷ đó một cách hữu hiệu hơn là
cái lò hôn nhân. Bởi đó, chúng ta hãy chấp nhận những khó khăn, trắc trở trong
đời sống vợ chồng với một tinh thần hy sinh và nên biết rằng cái phàm ngã của
ta phải chịu những đắng cay, thử thách, để cho cái Chơn Ngã của ta có thể biểu
lộ và phát triển.
Xét vì người bạn trăm năm đến với ta do bởi dây nhân
duyên đã có từ trước; xét vì không phải do sự ngẫu nhiên tình cờ, mà do ý muốn
của Chơn Ngã nó dìu dắt ta đến gặp gỡ và sống trong một hoàn cảnh nhất định nào
đó, dầu cho đó là một hoàn cảnh khó khăn trắc trở; xét vì giữa sự bất hòa có một
cơ hội cho ta tiến hóa bằng sự quên mình và hành động vị tha, nên chúng ta coi
sự ly dị hầu như là một điều thiếu sót. Trái lại nếu chúng ta nhìn nhận rằng
không có một chế độ nào có quyền cưỡng ép bất cứ một người nào sống trong sự
giam hãm trói buộc, nó là nguồn gốc của mọi sự xung đột, bất hòa và trái hẳn với
tâm tình tánh chất của ta; rằng những viên ngọc quý của một mối tình vị tha
không nên đem quăng cho những con lợn ích kỷ, thì chúng ta sẽ hoan nghinh sự ly
dị như một biện pháp hợp lý và lành mạnh, cũng như chúng ta hủy bỏ một bản hợp
đồng hay khế ước không hợp pháp chẳng hạn. Như thế chúng ta đã trở về với sự
quân bình, sự ôn hòa, và theo cái luật lệ vàng của con người trung đạo.
CHƯƠNG 17
NGHIỆP QUẢ GIỮA CHA MẸ
VÀ CON CÁI
Trong nhiều thế kỷ,
gia đình là một tổ chức riêng biệt mà người gia trưởng là người cha, hay người
mẹ, theo phong tục ở một vài xứ. Những tổ chức gia đình ấy vẫn luôn luôn tồn tại
ở khắp nơi. Theo một quan niệm duy vật, người ta coi những trẻ con như là một sở
hữu của cha mẹ chúng: Chúng sinh ra do bởi sự mang nặng đẻ đau và hy sinh của
người mẹ; chúng được nuôi dưỡng do bởi sự làm lụng khó khăn vất vả của cha mẹ.
Nói về phương diện vật chất, những người làm cha mẹ có một thể chất khỏe mạnh
hơn, già dặn hơn thông minh hơn những đứa con; vì lẽ đó, họ có quyền ngự trị
trong gia đình.
Nhưng nói về phương diện tâm linh, thì không hề có vấn
đề cha mẹ là tuyệt đối cao cả hơn con cái. Tất cả sinh linh trong Trời Đất đều
là những đơn vị bình đẳng của toàn thể một cơ cấu rộng lớn. Trên bình diện tâm
linh, cha mẹ không có sở hữu con cái, thậm chí cũng không phải là những người
sáng tạo ra con cái. Họ chỉ là những phương tiện cho những linh hồn của những đứa
con mượn chỗ đầu thai ở cõi thế gian. Một sự vận hành mầu nhiệm trong cơ thể họ
khiến cho họ giao hợp với nhau trong một lúc và làm vận chuyển một cơ cấu cũng
không kém mầu nhiệm, mà kết quả là sự cấu tạo và sinh sản ra một thể xác hài nhi.
Cái thể xác đó trở nên chỗ nương ngụ của một linh hồn khác cũng tiến hóa như
chúng ta. Linh hồn ấy nhất thời bị yếu kém và không biết nói, trách nhiệm và bổn
phận của chúng ta trong sự nuôi dưỡng cho nó lớn lên, đều là những kinh nghiệm
rất quý báu cho ta. Đó là những kinh nghiệm giúp ta khai mở đức hy sinh và bác
ái, với một tấm lòng thương cảm và trìu mến sâu xa thâm trầm.
Những sự việc tốt lành kể trên chỉ xảy ra khi người
làm cha mẹ không có lòng chiếm hữu và áp chế con cái dưới một hình thức nào đó.
Trong quyển "The Prophet", ông Khalil Gibran viết như sau:
"Con cái của anh sinh ra, không phải là của
anh. Chúng nó chỉ là con cái của "Sự sống bất diệt trường tồn". Chúng
nó do bởi anh sinh ra, chớ không phải là của anh. Và tuy chúng sống chung với
anh trong một nhà, nhưng chúng không thuộc quyền sở hữu của anh. Anh chỉ là những
cái cung nhờ đó những đứa con anh lấy đà vùng vẫy chẳng khác nào như mũi tên bắn
ra tận bốn phương trời. Người Cung Thủ kéo sợi dây cung là nhằm mục đích
hòa vui, và trong khi Người yêu cái mũi tên bay, Người cũng yêu cái cung còn ở
lại".
Đối với con cái, những bậc phụ huynh không nên có một
thái độ áp chế của kẻ bề trên, hoặc một thái độ ganh ghét ruồng bỏ. Một thái độ
bình thản ôn hòa là thái độ thích nghi nhất của người cha mẹ đối với con cái mà
họ có bổn phận nuôi dưỡng chăm nom. Họ chỉ có được thái độ ấy khi nào họ hiểu
biết điều chân lý căn bản này, là tất cả chúng sinh, tất cả mọi sinh linh đều
bình đẳng với nhau. Nói theo danh từ thường dùng trong những cuộc soi kiếp của
ông Cayce, những người làm cha mẹ là những con "Kinh vận hà" để cho
nguồn sinh hoạt đi xuyên qua, và nhờ đó những linh hồn có phương tiện để đầu
thai ở cõi trần. Bởi vậy những cặp nam nữ sắp sửa thành hôn được khuyên nhủ và
dặn dò về tánh cách thiêng liêng của sự giao hợp giữa vợ chồng. Quan điểm này
đúng với quan điểm triết học Ấn Độ cho rằng vấn đề tình dục và sinh lý giữa nam
nữ có một ý nghĩa thiêng liêng và cao quý. Nhưng bất hạnh thay, khoa Thần học cổ
truyền của đạo Gia Tô lại coi mọi vấn đề liên quan đến sự sinh dục như là dấu vết
của tội lỗi. Do một sự hiểu lầm đáng tiếc về biểu tượng diễn tả trong Chương La
Genèse của bộ Thánh Kinh, toàn thể nhân loại bị coi như là kết quả của "Tội
lỗi nguyên thủy" gây ra bởi ông Adam và bà Eve. Tuy rằng lễ hôn phối hợp
pháp hóa sự giao hợp giữa vợ chồng, người ta vẫn nghĩ rằng con cái được sinh sản
ra trong vòng tội lỗi. Đó là những quan niệm sai lầm về vấn đề sinh lý tự nhiên
của cơ thể con người theo như ý muốn của Thượng Đế. Quan niệm sai lầm ấy có những
hậu quả tâm lý rất tai hại, gây nên những sự dồn ép sinh lý, ý niệm tội lỗi và
những xung đột tâm lý thuộc về loại trầm trọng và tê liệt nhứt.
Tuy nhiên, giải pháp đối tượng của vấn đề này không
phải là tự do luyến ái, hay tự do thỏa mãn dục tình. Giải pháp thích nghi là sự
thông hiểu một cách tường tận rằng cơ năng sinh sản sáng tạo của con người là một
quyền năng thiêng liêng. Một cuộc soi kiếp nói: "Ái tình và sự giao hợp với
một thể xác tinh khiết là cái kinh nghiệm thiêng liêng cao quý nhất một linh hồn
có thể thâu thập trong một kiếp sống ở cõi trần". Quan điểm này được nhấn
mạnh trong nhiều cuộc soi kiếp, và người ta nhận thấy nó trong những trường hợp
mà một người phụ nữ muốn biết xem nàng có thể nào có con được không? Trong những
trường hợp đó đương sự thường yêu cầu một cuộc khám bịnh bằng Thần Nhãn để xem
nàng có thể tự chuẩn bị bằng cách nào để thụ thai và sinh sản. Trong những cuộc
khám bịnh đó, những phép điều trị về cơ thể nêu ra rất nhiều, nhưng không có gì
khác thường. Có khác chăng là sự soi xét bằng Thần Nhãn giúp cho ông Cayce biết
rõ nhu cầu của mỗi cơ thể riêng biệt của mỗi người tùy theo trường hợp. Tuy
nhiên, những cuộc soi kiếp cũng nhấn mạnh về tánh cách quan trọng của sự chuẩn
bị tư tưởng và tâm linh, vì thái độ tinh thần của người mẹ sẽ hấp dẫn những
linh hồn cùng có một tâm trạng tương tự, theo luật "Đồng thinh tương ứng;
đồng khí tương cầu".
Cuộc soi kiếp nói: Linh hồn này hãy nên biết rằng sự
chuẩn bị tư tưởng và tâm linh là một việc có tính cách sáng tạo, cũng cần thiết
như sự chuẩn bị về thể chất, có lẽ còn cần thiết hơn.
Đối với một người đàn bà ba mươi sáu tuổi hỏi ông rằng
bà ấy còn hy vọng có con hay không, cuộc soi kiếp nói: "Bà hãy tự luyện
mình thành một khí cụ tốt lành hơn về mọi mặt thể chất, trí não, và tâm linh.
Người đời thường có thói quen chỉ xem sự thụ thai như một việc làm thuộc về thể
chất mà thôi".
Một cuộc soi kiếp khác nói: "Do sự giao hợp,
con người có dịp tạo nên một đường vận hà để cho đấng Tạo Hóa có thể hành động
xuyên qua nàng bằng quyền năng Sáng Tạo của Ngài. Vậy đương sự hãy cẩn thận coi
chừng thái độ của mình và của người bạn trăm năm của mình khi các người tạo nên
các cơ hội đó, vì linh hồn đầu thai vào làm con các người sẽ có một tánh tình
tùy thuộc một phần nào ở thái độ của cha mẹ".
Những cuộc soi kiếp cho biết rằng những mối liên hệ
giữa cha mẹ và con cái không phải do sự ngẫu nhiên tình cờ. Những sợi dây liên
lạc thường đã có sẵn từ những kiếp trước giữa người con với người mẹ hay người
cha. Trong những trường hợp rất hiếm mà sợi dây liên lạc đó không có, thì tình
trạng gia đình tạo nên cái hoàn cảnh thích ứng với nhu cầu tâm lý của đứa trẻ.
Những hồ sơ Cayce cho biết rằng vài đứa trẻ có một sợi dây duyên nghiệp với người
cha mà không có với người mẹ, hoặc đảo ngược lại, có duyên nghiệp với người mẹ
mà không có với người cha. Trong những trường hợp đó, thường có một trạng thái
dửng dưng giữa đứa con với người cha hay người mẹ mà nó mới quen biết lần đầu
tiên trong kiếp này. Những trường hợp dưới đây chỉ cho ta thấy một cách đặc biệt
nhiều mối liên hệ khác nhau giữa cha mẹ và con cái.
Hai mẹ con người kia có một tình mẫu tử rất khắn
khít: Họ đã là hai mẹ con trong kiếp trước. Hai cha con người kia cũng có một
tình phụ tử nồng nàn: Trong một kiếp trước họ đã là hai anh em trong một gia
đình.
Một người mẹ không hạp với con gái của bà: Họ chưa từng
có sự liên hệ gì với nhau ở trong kiếp trước. Giữa một người con gái kia với
người mẹ của cô ấy, chỉ có một sự dửng dưng lạnh nhạt; cuộc soi kiếp cho biết
kiếp trước hai người là hai chị em ruột nhưng lại có một mối bất hòa trầm trọng:
Hai người thường xung đột cãi vả lẫn nhau, và vẫn chưa hòa thuận trở lại. Hai
cha con người kia kiếp trước là hai vợ chồng. Một người mẹ và con gái thường
xung đột lẫn nhau: Trong kiếp trước, họ là hai bạn gái tranh giành nhau một người
đàn ông và tranh giành địa vị. Trong hai mẹ con, người con trai hay lấn át người
mẹ: Trong kiếp trước, họ là hai cha con, với sự liên hệ gia đình trái ngược lại.
Những trường hợp đó chỉ rằng sự hấp dẫn của con cái
đến với cha mẹ là do bởi sự hành động của nhiều nguyên tắc. Những nguyên tắc đó
nhiều đều ẩn dấu đối với cặp mắt phàm của chúng ta. Những hồ sơ Cayce giúp cho
ta có những tài liệu suy gẫm, nhưng không có đầy đủ chi tiết để cho ta có thể dịch
ra thành một định luật nhất định.
Theo luật hấp dẫn, những người đồng thanh khí và giống
nhau về tâm tình tánh chất thường rút lại gần nhau. Nhưng đồng thời, vì những
lý do nhân quả, những kẻ thù nghịch cạnh tranh nhau và tâm tính tánh chất đối
chọi nhau thường cũng hay rút lại gần nhau. Một thí dụ điển hình là trường hợp
một đứa trẻ được ông Cayce soi kiếp khi mới lên năm tuổi. Cuộc soi kiếp cho biết
những đặc tính của đứa trẻ là thói ích kỷ, sự thờ ơ lãnh đạm và ngoan cố không
chịu phục thiện khi y có lỗi. Y có những khả năng tiềm tàng của một nhà khảo cứu
khoa học. Trong một kiếp trước, y là một nhà sưu tầm về tiềm lực của hơi nước
như là một khí cụ sản xuất tinh lực. Ở một kiếp trước, y là một chuyên viên hóa
học chế tạo cac loại chất nổ; trong kiếp trước nữa y là một chuyên viên ngành
cơ khí; và đi lùi về dĩ vãng một kiếp nữa; người ta thấy y là một kỹ sư điện
khí ở châu Atlantide. Bốn kiếp dành cho sự hoạt động tích cực về ngành khoa học
thực dụng đã làm cho đương sự phát triển những khả năng đặc biệt, nhưng y lại
quá thiên về giá trị của khoa học vật chất mà khinh rẻ giá trị của tình thương,
đức tính mỹ lệ, và sự hợp nhất tâm linh của mọi loài vạn vật.
Bởi đó, y có một thái độ thản nhiên lạnh lùng đối với
người chung quanh. Cuộc soi kiếp còn cho biết rằng đứa trẻ ấy sẽ thành công vẻ
vang trong kiếp này nếu nó theo đuổi ngành kỹ thuật điện khí, hay cơ khí dùng sức
mạnh của hơi nước, và gồm một công việc có dùng đến sự tính toán bằng phép đại
số. Lời tiên tri đã tỏ ra hoàn toàn đúng. Đứa trẻ ấy bây giời đã trở nên một
viên kỹ sư điện khí và những điểm chính trong tánh tình của y đều giống y như
cuộc soi kiếp đã tiết lộ, tuy rằng y đã có một sự thay đổi tánh tình nhờ ảnh hưỡng
của hoàn cảnh gia đình trong kiếp hiện tại.
Nếu nói rằng theo luật đồng khí tương cầu, những người
giống nhau sẽ rút lại gần nhau, thì trong trường hợp này có lẽ đứa trẻ đã sinh
ra trong một gia đình khoa học trí thức, mà người cha có lẽ là một kỹ sư và người
mẹ là một giáo sư toán pháp ở một trường Đại Học chẳng hạn. Nhưng trái lại, y lại
sinh ra trong một gia đình gồm những người nuôi lý tưởng vị tha, không có óc hoạt
động thực tế. Người cha có óc tín ngưỡng tôn giáo và thích hoạt động xã hội;
người mẹ tuy rằng bề xã giao hơi kém, nhưng có khuynh hướng hoạt động xã hội do
ảnh hưởng của người cha. Người anh cả của đứa trẻ cũng là một người có lý tưởng
vị tha, và sự hoạt động chính của y trong đời là giúp đỡ kẻ khác.
Xét về bề ngoài, thì sự đầu thai của một đứa trẻ như
thế trong gia đình kể trên không thể nói là do nhân quả gây nên. Tuy nhiên, dường
như có một nguyên tắc sửa đổi, chấn chỉnh những điều thiên lệch để đem lại sự
thăng bằng trong tâm tính của một con người. Có thể rằng linh hồn đứa trẻ đã nhận
thấy sự khuyết điểm của mình và đã chọn lựa đầu thai vào một gia đình có lý tưởng
vị tha giúp đời, để cho y có cơ hội phát triển khía cạnh vị tha bác ái trong
tâm tính của y.
Trong kiếp hiện tại, đứa trẻ luôn luôn có dịp tiếp
xúc với những người mà mục đích chính trong đời là phụng sự kẻ khác. Óc thực tế
của y thường ảnh hưởng đến những người khác trong gia đình một cách lành mạnh,
trái lại, lý tưởng vị tha của họ hằng ngày đều nhắc nhở cho y biết rằng ngoài
ra những giá trị thực tế và vật chất của cuộc đời, còn có những giá trị đạo đức
tâm linh. Tuy rằng kinh nghiệm đó không có đem đến một sự thay đổi hoàn toàn
trong cái giá trị căn bản của cuộc đời y là khoa học thực dụng, nhưng nó đã ảnh
hưởng đến con người của y bằng cách làm cho y trở nên bớt ích kỷ khô khan và trở
nên cởi mở hồn nhiên hơn về mặt giao tế ngoài xã hội.
Như thế, việc chọn lựa hoàn cảnh để đầu thai dường
như đã đạt được mục đích sửa đổi tâm tính và cuộc đời của y ít nhất được một phần
nào. Những tài liệu hồ sơ Cayce chứng minh một cách đầy đủ rằng những linh hồn
sắp sửa tái sinh trở lại cõi trần có ít nhiều tự do trong việc chọn lựa hoàn cảnh
và gia đình nào họ muốn đầu thai. Có vài bằng chứng chỉ rằng đối với những linh
hồn kém tiến hóa, thì sự tự do chọn lựa ấy có giới hạn, nhưng nói chung thì sự
lựa chọn cha mẹ để đầu thai dường như là một cái đặc quyền của mỗi linh hồn.
Người ta không dễ hiểu lý do tại sao một linh hồn lại cố tình chịu đầu thai vào
một nhà ổ chuột tối tăm trong ngõ hẻm, với những cha mẹ bần cùng khốn khó, một
thể xác yếu đuối bệnh tật, và những hoàn cảnh bất lợi khác. Xét qua bề ngoài
thì dường như một sự chọn lựa như thế có vẻ vô lý; nhưng nếu xét kỹ người ta thấy
rằng điều ấy cũng có một lý do sâu xa: Có khi một linh hồn cố ý chọn lựa một
hoàn cảnh xấu xa bất lợi để làm phương tiện lấy đà, hầu có nỗ lực cố gắng vượt
qua mọi chướng ngại và chiến thắng nghịch cảnh.
Có một điều lạ là sự tự do chọn lựa ấy dường như là
có một ảnh hưởng đến tỷ lệ chết yểu của trẻ con. Nói chung thì khi sinh ra, một
linh hồn có thể thoáng thấy một phần nào cái viễn ảnh cuộc đời tương lai của
mình ở thế gian, khi y chọn lựa cha mẹ của y và hoàn cảnh để đầu thai. Nhưng vì
con người còn có quyền xử dụng ý chí, tự do nên luật Tự Nhiên khiến cho y không
thể nào biết trước tất cả mọi việc xảy ra trong tương lai. Sau khi đã chọn lựa
cha mẹ và sinh ra ở thế gian, một linh hồn có thể nhận thấy rằng những người
làm cha mẹ của y không ứng đáp lại đúng y như nguyện vọng của y sở cầu. Bởi đó,
cái mục đích của y nhắm khi đầu thai vào làm con trong gia đình ấy đã hỏng, vì
y đã gặp phải những hoàn cảnh khác hẳn, nên linh hồn bèn không muốn sống nữa và
tự ý rút lui.
Dưới đây là một trường hợp một thiếu phụ mà cuộc soi
kiếp cho biết rằng trong một kiếp trước, nàng đã bị chết yểu. Kiếp đó nàng đầu
thai trở lại một gia đình nọ do bởi sự hấp dẫn của người mẹ, nhưng sau khi sinh
ra nàng được ít lâu thì người cha bắt đầu say sưa chè chén, trở nên thô lỗ cộc
cằn và đánh đập vợ con. Thất vọng vì cảnh gia đình ấy, linh hồn đứa trẻ bèn quyết
định không sống nữa và sau một cơn đau ốm vặt thuộc về bịnh trẻ con, nàng bèn từ
giả cõi trần để trở về chốn cũ! Cuộc soi kiếp cho biết rằng những sự "Rút
lui" như thế là những hiện tượng rất thông thường.
Nếu như vậy, thì sự chết yểu của trẻ con, ít nhất
trong vài trường hợp, có thể ví dụ như sư rút lui âm thầm của một khán giả đi
xem hát, bị thất vọng khi xem một màn đầu không được hấp dẫn, bèn lẳng lặng đứng
dậy bỏ ra về. Trong vài trường hợp như trường hợp kể trên, một sự rút lui như
thế có thể là do sự lỗi lầm của những người làm cha mẹ; nhưng trong những trường
hợp khác, nó chỉ là do sự xét đoán sai lầm của linh hồn đầu thai.
Đôi khi, sự chết yểu của một đứa con vừa sinh ra có
thể được coi như một kinh nghiệm đau khổ cần thiết cho những người làm cha mẹ.
Đứa con chỉ sinh ra có một lúc ngắn ngủi với một tinh thần hy sinh, để đem lại
cho một bài học đau khổ mà họ cần dùng, và nhờ đó họ sẽ có cơ hội tiến hóa về
tinh thần.
Một điểm lý thú khác đã được xác nhận rõ ràng và nhiều
lần trong những tập hồ sơ của Cayce, là lúc thụ thai không phải là lúc linh hồn
của đứa trẻ nhập vào trong bụng người mẹ. Những cuộc soi kiếp thường khuyên các
bà mẹ có mang hãy giữ gìn tư tưởng trong thời kỳ thai nghén, vì những tư tưởng
của người mẹ có thể ảnh hưởng đến cái bào thai, và quyết định một phần nào về
loại linh hồn nào sẽ đầu thai vào làm cho con họ. Dưới đây là một đoạn vấn đáp
trong tập hồ sơ Cayce về vấn đề này:
Hỏi: "Tôi phải có một thái độ tinh thần như thế
nào trong những tháng sắp tới?"
Đáp: "Điều ấy tùy nơi loại linh hồn mà bà mong
muốn sẽ đầu thai làm con bà. Nếu bà muốn con là nghệ sĩ, nhạc sĩ, bà hãy nghĩ đến
âm nhạc, nghệ thuật và mỹ lệ. Bà muốn có con giỏi về máy móc chăng? Như vậy, bà
hãy nghĩ đến cơ khí, hoặc làm lụng, hoạt động với các loại máy móc. Bà chớ tưởng
rằng điều ấy không có ảnh hưởng gì! Đây là một điều mà các bà mẹ nên biết: Tâm
trạng của một người mẹ trong khi thai nghén có ảnh hưởng rất nhiều đến tánh
tình của đứa trẻ sẽ đầu thai vào làm con các bà".
Theo những tài liệu của ông Cayce thì linh hồn có thể
nhập vào bào thai khi còn nằm trong bụng mẹ trước khi sinh ra, hoặc ít lâu sau
khi sinh ra, hoặc ngay vừa lúc mới sinh ra. Có thể sau khi sinh ra đến hai mươi
bốn giờ đồng hồ, linh hồn mới nhập vào thể xác đứa trẻ; và trong vài trường hợp,
cũng có sự thay đổi vào giờ chót về linh hồn nào sẽ nhập vào. Điều này mới nghe
qua thì dường như không đúng với thuyết Luân Hồi nếu người ta tin rằng một thể
xác có thể sống mà không có linh hồn ngự trị ở bên trong; nhưng sự thật, điều ấy
không phải là hoàn toàn vô lý. Những người Thông Thiên Học gọi thể xác là cái
khí cụ của linh hồn.
Chúng ta hãy thử lấy thí dụ sau đây để giải thích vấn
đề kể trên: Một chiếc xe hơi đã được chế tạo xong, giàn xe đã lắp xong xuôi, bộ
đồ đèn lửa đã bắt cháy; chiếc xe đã bắt đầu quay máy và động cơ đã chạy, nhưng
người lái xe vẫn chưa xuất hiện và chưa vào ngồi trong xe. Dùng thí dụ đó để so
sánh thì ta có thể quan niệm rằng khi hài nhi vừa sinh ra, thể xác của nó đã được
cấu tạo đầy đủ, những bộ phận trong cơ thể đã hoạt động, mặc dầu linh hồn của đứa
trẻ vẫn chưa nhập vào thể xác.
Lẽ tự nhiên, sự lý luận bằng cách so sánh không phải
là luôn luôn vững chắc và xác đáng, chúng ta phải dùng cách lý luận đó là vì
trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce, chúng ta luôn luôn gặp phải những điều
lạ lùng như đã kể trên; và bởi vì sự hiểu biết của chúng ta về sự bí ẩn của đời
người hãy còn thô thiển và thiếu sót để có thể giải thích một cách xác đáng
theo phương pháp khoa học. Có người đưa ra cho ông Cayce câu hỏi này: "Cái
gì làm cho thể xác đứa trẻ sống được, trước khi linh hồn nhập vào?" Câu trả
lời có vẻ bí hiểm, nếu không nói là mơ màng và khó hiểu: "Đó là cái tinh
thần. Vì tinh thần là nguồn gốc của vật chất, và đó chính là Thượng Đế vậy."
Về điểm này và nhiều điểm khác nữa, người ta cần có
những cuộc sưu tầm bằng khả năng Thần Nhãn. Sự sinh sản không phải là một sự
tình cờ, và việc một đứa trẻ lọt lòng mẹ để chào đời không phải là một điều giản
dị như người ta có thể tưởng. Về vấn đề này cũng như bao nhiêu vấn đề khác trên
địa hạt nhân sinh, những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã tỏ ra vô cùng lý thú và
hữu ích vì nó hé mở những chân trời mới lạ để dìu dắt những cuộc sưu tầm khảo cứu
của người đời nay.
CHƯƠNG 18
VÀI NGHIỆP QUẢ GIA
ĐÌNH
Một trong những điều
buồn thảm nhất của con người là sinh ra một đứa con tàn tật. Về phương diện vật
chất, điều này là một gánh nặng về sự phí tổn tiền bạc và công lao săn sóc cho
đứa trẻ. Về phương diện kinh tế, đó là một cái gánh nặng của xã hội phải nuôi
dưỡng một phế nhân có thụ hưởng mà không sản xuất. Về phương diện tâm linh, điều
ấy gây cho con người một sự hoài nghi về lòng nhân từ của Thượng Đế, và một sự
băn khoăn lo ngại cho hạnh phúc của đứa trẻ.
Đối với những cha mẹ đau khổ đó, định luật Luân Hồi
có thể đem đến cho họ lòng can đảm và đức tin. Trước hết, theo định luật ấy thì
tất cả mọi sự tai ương, tật ách, đau khổ của con người đều là do quả báo gây
nên. Trong những tập hồ sơ của Cayce có vài trường hợp những đứa trẻ bị tật
nguyền từ khi mới sinh ra, nhưng lại được coi như không phải vì lý do quả báo.
Nhưng nói chung thì những phế tật đều là dấu hiệu rõ ràng của sự vi phạm hoặc lỗi
lầm trong quá khứ. Kế đó, sự liên hệ giữa cha mẹ và đứa con bị phế tật cũng là
do quả báo sinh ra. Những cuộc soi kiếp cho những đứa trẻ bị chứng sưng đầu,
câm điếc, chương óc và những tật ách khác, đều luôn luôn nói rằng: "Đó là
quả báo, vừa là của cha mẹ, vừa là của đứa trẻ."
Một trong những thí dụ xác đáng về loại quả báo này
là trường hợp của một cô gái nhỏ người Do Thái mới mười hai tuổi, bị chứng động
kinh từ thuở sơ sinh. Chứng bịnh này không những là phiền phức khi cô bị lên
cơn, mà còn là một trở ngại rất lớn cho sự phát triển cá tính của cô. Theo cuộc
soi kiếp thì người cha, người mẹ và cô gái, ba người đã từng xum họp với nhau
trong kiếp trước trong một gia đình ở Bắc Mỹ hồi thời kỳ khởi nghĩa giành độc lập.
Trong kiếp đó, cha mẹ cô gái nhận thấy rằng theo chế độ cũ của người Anh có lợi
về tiền bạc vật chất hơn là theo phe khởi nghĩa giành độc lập. Trong kiếp đó, họ
hoạt động để cung cấp tài liệu tin tức cho chế độ Hoàng Gia. Cô gái là một thiếu
nữ đẹp và thông minh, điều này là một yếu tố cần thiết có thể giúp ích cho những
mưu toan của cha mẹ cô. Thay vì giữ cô trong nhà, cha mẹ cô lại khuyến khích cô
dùng những lợi khí sắc bén và quyến rũ kia vào những mục đích chính trị có lợi
cho gia đình. Mặc dầu cuộc soi kiếp không nói cho biết kết quả tấn tuồng ám muội
kia, nhưng nó đã vạch rõ những hậu quả của hành động ấy trong kiếp hiện tại.
Xem xét những hậu quả này, chúng ta mới thấy rằng luật Nhân Quả hành động một
cách mầu nhiệm và đúng đắn vô cùng, không hề suy chuyển. Cuộc soi kiếp cho cô
gái bắt đầu như sau: "Những người cha mẹ của linh hồn này nên so sánh những
kinh nghiệm đã qua của họ bằng một cuộc soi kiếp cho chính họ, để nhìn thấy những
bổn phận và triển vọng của họ đối với linh hồn này. Bất cứ người nào nhìn thấy
sự đau khổ hiện tại của linh hồn này đều phải nhận thức sự kiện "Nhân nào
quả nấy" và không ai có thể kiêu ngạo Chúa Trời, vì ai gieo giống nào sẽ gặt
giống nấy. Sự bành trướng bản ngã và phóng đãng trụy lạc của linh hồn này trong
kiếp trước đã in dấu vết trong cơ thể của cô trong lúc hiện tại, vì ai gieo gió
ắt sẽ gặt bão. Những người làm cha mẹ phải chịu trách nhiệm một phần lớn về cuộc
đời cô trước đó, nhằm mục đích thực hiện những lợi lộc vật chất. Bởi đó, chính
họ phải chịu gánh lấy hậu quả trong kiếp này".
Nói tóm lại, người con gái ấy bị chứng động kinh trầm
trọng trong lúc hiện tại là để trả quả báo về sự chơi bời dâm đãng trong kiếp
trước. Thât là một điều công bình mà thấy cha mẹ cô có trách nhiệm phải nuôi dưỡng
săn sóc một người con mà sự sa đọa phần lớn là do sự lỗi lầm của họ gây ra.
Một trường hợp lý thú khác là của một thiếu nữ ở New
York, bị mù mắt từ khi lọt lòng mẹ. Nhìn qua các tấm ảnh của cô ta thì cũng khá
đẹp. Người mẹ yêu cầu ông Cayce khám bịnh cho cô ấy, nhưng vì không có một cuộc
soi kiếp nên không rõ tật ách mù lòa này nguyên nhân từ đâu. Dầu sao, người mẹ
cô yêu cầu một cuộc soi kiếp cho chính bà ấy, và nhờ đó người ta mới thấy rõ mối
liên hệ về nhân quả giữa hai mẹ con bà ấy. Trong một kiếp trước, người mẹ đã từng
làm một giáo sư dạy học. Cuộc soi kiếp nói: "Linh hồn này đã lợi dụng một
cơ hội để làm tiền và gieo sự rối rắm vào cuộc đời của một người đàn bà khác.
Kiếp này hai vợ chồng y phải trả quả báo, vì thuở xưa hai người hành động theo
những mục đích ích kỷ mà không kể đến luật Trời".
Người ta chỉ có thể phỏng đoán về tánh chất thật sự
của tấn bi kịch này, trong đó hình như người cha cũng đóng một vai trò. Tất cả
những gì xảy ra, ấy là một vị giáo chức đã khai thác một người đàn bà nọ vì lợi
riêng, làm cho người kia buồn rầu và đau khổ. Chính người đàn bà bị khai thác
đó, trong một kiếp trước cũng có một nghiệp ác cần phải trả, mà quả báo là tật
mù mắt. Trong kiếp này cô bèn đầu thai vào làm con gái của vị giáo chức kia, nhờ
đó mẹ cô đã có cơ hội để trả quả báo cũ.
Trường hợp thứ ba là một trường hợp rất lý thú về tật
khật khùng của người con vì tội lỗi của một người mẹ. Trong một kiếp trước ở
Palestine, người đàn bà kia đã chế nhạo những kẻ tàn tật, bởi đó cô gây ra những
nghiệp ác làm cho cô sinh ra một đứa con thiếu trí khôn và khật khùng trong kiếp
này.
Trong một trường hợp khác, đương sự là một thiếu nữ
bị chứng to đầu vì trong óc có nước, một chứng bịnh rất kỳ lạ và ít có. Người mẹ
đã chết vài ngày sau khi sinh sản, và người cha đã gởi đứa con trong một nhà từ
thiện Công giáo. Khi đứa con lên bốn tuổi, người cha đến xin ông Cayce soi kiếp
cho nó. Nhưng em ấy không thể đi đứng gì được, vì đầu em quá nặng và lớn quá,
và em phải chú ý giữ gìn luôn luôn cho đầu khỏi nghiêng.
Vì không có một cuộc soi kiếp nào cho em gái này nên
người ta không biết rõ lý do của căn bịnh ấy. Tuy thế ông Cayce đã soi kiếp cho
người cha, vì người này muốn biết sự liên hệ giữa ông với đứa con gái trong kiếp
trước là như thế nào. Câu trả lời rất vắn tắt và khô khan: "Trong kiếp trước
ông có phương tiện giúp đỡ kẻ khác, nhưng ông làm ngơ không chịu giúp ai cả! Vậy
ông nên tập lấy tánh biết thương người trong kiếp này". Cuộc soi kiếp
không có nói đầy đủ chi tiết để cho ta biết rõ tánh ích kỷ của ông là như thế
nào. Chỉ nghe nói rằng kiếp trước, ông là một người lái buôn ở Fort Dearborn,
và "Thâu thập được rất nhiều của cải vật chất, nhưng lại rất kém cỏi về
phương diện tâm linh". Xét về trường hợp kể trên, người ta thấy rằng nếu
chúng ta thản nhiên và làm ngơ trước sự đau khổ của kẻ khác, chính chúng ta sẽ
bị định mệnh đem đến cho ta những đau khổ đó. Một người kia có thể không quá độc
ác để tích cực gây thương tổn cho kẻ khác, nhưng ông có thể không chịu làm lành
cũng như ông không làm ác. Một thái độ thản nhiên bất động như thế trước sự đau
khổ của nhân loại có lẽ không phải là một tội ác lớn để gây nên một nghiệp quả
tàn tật vào xác thân. Nhưng dầu sao người ta cũng phải học bài học thiện chí và
thông cảm. Bằng cách này hay cách khác, người ta phải chú trọng đến những sự lầm
than khốn khổ của người đời; nói tóm lại, người ta phải có lòng nhân từ và biết
thương xót kẻ khác. Và vì lẽ người ta không bị quả báo tật nguyền vào chính bản
thân mình, thì còn có phương tiện nào tốt lành hơn là lãnh lấy cái kinh nghiệm
đau thương của người cha sinh ra một đứa con tàn phế? Do sự đau khổ nhìn thấy đứa
con bị phế tật, mà người ta mới có dịp thông cảm sự đau khổ của những người làm
cha mẹ ở vào một trường hợp tương tự, và mới hiểu rõ ý nghĩa thế nào là sự đau
khổ của người thế gian.
Những trường hợp vừa kể trên chỉ cho chúng ta thấy rằng
giữa cha mẹ và con cái có những nhân duyên và nghiệp quả ràng buộc lẫn nhau.
Ngoài ra cũng có những sợi dây duyên nghiệp giữa những anh em trong một gia
đình. Trong những hồ sơ Cayce, có một trường hợp lạ lùng về sự thù nghịch giữa
hai chị em nhà kia đã dẫn chứng cho điều nầy. Kể từ khi họ còn thơ ấu, giữa hai
chị em nói trên đã có sự ganh ghét, đố kỵ và thù hằn lẫn nhau. Giữa hai chị em,
luôn luôn xảy ra những xung đột cãi vã, thường khi chỉ vì những duyên cớ nhỏ nhặt
không đâu. Sự thù nghịch đó không có xảy ra giữa những người anh em khác trong
gia đình.
Xét theo quan điểm tâm lý của Freud, thì sự thù nghịch
giữa hai chị em nhà này có thể truy nguyên ra bởi sự tranh giành tình thương của
người cha. Nhưng theo sự quan sát bằng Thần Nhãn của ông Cayce thì giữa hai người
có một sự ghen tuông sâu xa về tình: Trong một kiếp trước, người chị có chồng
và giữa hai chị em đã xảy ra một sự hiểu lầm về sự giao thiệp giữa người em vợ
với người anh rể.
Để cho những nhân vật của tấn bi kịch này hiển hiện
rõ ràng, chúng ta hãy gọi tên cô em là Loan, gọi tên cô chị là Thúy, và Bình là
chồng của Loan. Trong cuộc soi kiếp cho cô em (Loan), cô này hỏi về những mối
liên hệ trong kiếp trước giữa cô với người chồng và người chị của cô ta thế
nào, thì cô nghe thuật lại câu chuyện dưới đây: Ba người đã từng gặp nhau trong
kiếp trước, trong kiếp đó, Bình là chồng của Thúy tức là chị của Loan bây giờ.
Một khi kia Bình đau nặng, và vì một lý do nào đó không rõ, lúc ấy Bình lại ở
cách xa với vợ y. Loan làm nghề nữ y tá, và nhờ sự săn sóc của cô nên Bình chóng
khỏi bịnh và phục hồi lại sức khỏe. Sự săn sóc của Loan đối với Bình chẳng qua
chỉ là bổn phận của một cô điều dưỡng, nhưng sự chăm nom tận tụy của cô đã tạo
nên giữa hai người một sự thông cảm, nó làm cho người chị là Thúy phải lấy làm
cay đắng khi cô khám phá ra câu chuyện. Sự ghen tuông vô căn cứ ấy không bao
lâu đã trở nên lòng thù hận, và sự căm hờn uất hận đã ảnh hưởng sâu xa trong
tâm hồn của người đàn bà khó tính ấy đến nỗi sau nhiều thế kỷ, nó vẫn còn biểu
lộ nơi tánh của cô trong kiếp này.
Dưới đây là một trường hợp thứ hai về nghiệp quả
ràng buộc giữa một người anh trai và một người em gái, hai anh em cùng sinh tại
Anh quốc. Trong cuộc Thế Chiến Thứ Hai, họ được giao cho một người đàn bà Mỹ
săn sóc, người này hồi đó làm giám đốc của một trường học ở tiểu bang New
England. Người anh lên mười tuổn, còn cô em mới năm tuổi.
Bà mẹ nuôi của hai em biết rõ tâm lý trẻ con bởi sự
học về phần lý thuyết và cũng do sự thực nghiệm của một đời làm nghề dạy học.
Bà ấy bắt đầu nhận thấy sự thù nghịch rõ rệt giữa hai anh em. Trong hai người
thì người anh có vẻ "ăn hiếp" và dữ nhất. Bà ấy yêu cầu ông Cayce soi
kiếp cho cả hai đứa. Cuộc soi kiếp tiết lộ cho biết một sự kiện rất lý thú: Hai
đứa trẻ trong kiếp trước là những người thuộc hai bộ lạc đối lập ở xứ Ecosse,
hai bộ lạc này đã từng chia rẽ và thù nghịch nhau vì một sự tranh chấp từ lâu đời
và đã từng đánh với nhau những trận giao phong ác liệt. Sự thù nghịch ấy tồn tại
qua nhiều thế kỷ, và biểu lộ trong kiếp này qua sự thù hằn giữ hai đứa trẻ nhỏ!
Hai thí dụ trên đây cũng đủ chứng minh cho thuyết
Luân Hồi quả báo và đem lại sự giải đáp cho bài toán bí hiểm về sự thù nghịch
vô căn cứ giữa những anh em trong một nhà, làm cho họ bị dày vò khổ sở mà không
hiểu lý do vì đâu. Mọi gia đình đều có lý do xung đột căn cứ trên những đụng chạm
nhất thời. Tuy nhiên những sự đụng chạm nhất thời đó có thể truy nguyên từ nhiều
thế kỷ trước.
Việc tìm ra nguyên nhân ở một kiếp trước về sự thù
nghịch giữa hai người, không đủ để làm tiêu tan sự thù nghịch ấy. Nếu hai người
ấy không muốn kéo dài sự thù nghịch kia từ kiếp này sang kiếp khác, thì trong
kiếp này họ phải cố gắng nhẫn nại thay thế sự căm thù ấy bằng tình thương, và
thay đổi sự đố kỵ chia rẽ kia trở thành một lòng ưu ái và thiện cảm. Lời khuyên trên đây không những áp dụng cho những
anh em trong một nhà mà thôi, nó còn áp dụng cho mọi giao tế ngoài xã hội, cùng
mọi sợi dây liên hệ ràng buộc chúng ta với tất cả mọi người trần gian.
Xét cho cùng, những sự thay đổi ngôi thường xuyên của
chúng ta trong gia đình trải qua nhiều kiếp luân hồi sinh tử, chỉ rằng thật ra
chúng ta không phải là những người của một gia đình riêng biệt nào cả. Chúng ta
là những phần tử của đại gia đình nhân loại, và trong sự sinh hoạt hằng ngày
chúng ta phải luôn luôn sống một cách có ý thức với điều Chân Lý tối trọng đó.
CHƯƠNG 19
NHÂN QUẢ ĐỐI VỚI CHỨC
NGHIỆP
Tất cả mọi người
trong chúng ta đều có mang trên vai một gánh nặng gồm đủ thứ sở trường và sở đoản,
cùng những đức tính tốt và thói hư tật xấu, những cái hay và cái dở, ưu điểm và
khuyết điểm dồn dập tích tụ từ lâu đời.
Điều này hiển hiện rõ ràng trong những cuộc soi kiếp
đặc biệt của ông Cayce, nhằm mục đích giúp đỡ trong vấn đề hướng nghiệp cho một
số người. Trước đây, ta đã thấy sự hành động của "Nguyên tắc liên tục"
trong việc đào tạo khả năng, và vì thế, nguyên tắc ấy đã trở nên một yếu tố
quan trọng trong đời người. Một thí dụ điển hình là trường hợp của một thiếu phụ
làm nghề sửa sắc đẹp ở New York. Nhà cô là một mỹ viện hạng sang, chuyên sửa sắc
đẹp phụ nữ, uốn tóc, chải đầu, cùng sửa cách ăn nói, điệu bộ. Chính chủ nhân
cũng là một người có sắc đẹp và cốt cách yểu điệu. Cuộc soi kiếp cho cô tiết lộ
ba kiếp trở về trước, mà dường như là chỉ có hai kiếp là có ảnh hưởng trực tiếp
đến khuynh hướng nghề nghiệp của cô bây giờ. Một kiếp đó diễn ra dưới triều đại
Pháp hoàng Louis 15, hồi đó cô có một ảnh hưởng lớn đối với nhà vua và hoàng
triều. Trong kiếp đó, cô tập sự về nghành giao tế, lễ nghi cùng phép xã giao lịch
sự, nghệ thuật trang sức và những bí quyết chưng diện sắc đẹp. Trong kiếp trước
nữa, cô sống dưới thời Đế quốc La Mã, và là một trong những người đầu tiên
trong hàng quý tộc đã theo đạo Gia Tô. Thụt lùi về dĩ vãng, cô đã sống ở xứ cổ
Ai Cập vào khoảng 13.000 năm trước Tây Lịch kỷ nguyên, và đã từng làm việc công
quả trong một ngôi đền. Trong một kiếp dưới thời hoàng triều nước Pháp, cô đã
thâu thập được những kinh nghiệm về đời sống lộng lẫy xa hoa; cô đã phát triển
những khả năng đặc biệt về phép giao tế và phép lịch sự trong đời sống xã hội.
Những kinh nghiệm mà cô đã thâu thập được trong một ngôi đền thời cổ Ai Cập cần
được giải thích rõ ràng hơn. Dường như thời kỳ đó ở Ai Cập có hai ngôi đền lớn,
gọi là Đền Mỹ Lệ và Đền Hy Sinh. Người ta thấy rải rác trong vài chục cuộc soi
kiếp những sự mô tả hai ngôi đền này, và do sự góp nhặt những tài liệu đó, người
ta có một ý niệm khá đúng về những gì đã xảy ra ở đó.
Ngôi đền Mỹ Lệ là một loại học đường hay trường Đại
học, nhưng nó không phải lo về mặt trí dục mà thôi, mà còn nhằm đào tạo nhân
cách trên một phương diện đồng đều, toàn diện. Tất cả những nghệ thuật và khoa
học đều được xử dụng để đào tạo nên một linh hồn cao thượng và một thể xác kiện
toàn cho các học viên để chuẩn bị cho họ trở nên những người công dân có khả
năng, hầu có tích cực hoạt động cho xứ sở. Ngôi đền này còn là trường huấn luyện
về mặt tôn giáo và đạo đức tâm linh. Ngôi đền này có bảy trung tâm đào tạo có kỷ
luật, theo quy mô của bảy Luân Xa hay bí huyệt trong cơ thể con người. Điều này
cho ta thấy rằng chương trình học tập và kiến trúc của ngôi Đền được quan niệm
trên sự hiểu biết sâu xa về khoa Huyền Môn.
Một trong những ngành hoạt động của ngôi đền Mỹ Lệ
là vấn đề hướng nghiệp căn cứ trên nền tảng tâm linh. Nhiều người trong kiếp
này chú trọng đến vấn đề hướng thiện, phát triển nhân cách, hoặc đào tạo nhân
phẩm bằng nghệ thuật và tôn giáo, khi truy nguyên ra thì được biết rằng trong
kiếp trước, họ là những giáo sư hay sinh viên đã từng theo học ở ngôi đền Mỹ Lệ
hồi thời cổ Ai Cập.
Còn Đền Hy Sinh thì có vẻ giống như một bệnh viện,
trong đó người ta áp dụng những kỹ thuật điện khí nhằm mục đích giải phẫu và chữa
bịnh (có lẽ do người Atlante truyền lại). Phép chữa bịnh này theo một nguyên tắc
chính là kiện toàn thể xác và cải tiến giống nòi, vì người ta gọi trung tâm này
là Đền, có ngụ ý một sự hướng dẫn tâm linh.
Dưới đây là trường hợp của một y sĩ chuyên môn chữa
bịnh đau khớp xương. Cuộc soi kiếp cho biết rõ bốn tiền kiếp của ông, mà ba kiếp
có ảnh hưởng đến phương diện nghề nghiệp của ông trong kiếp này. Ông đã từng
làm y sĩ ở Mỹ Châu lúc ban sơ và có giao thiệp với người thổ dân xứ ấy, nhờ đó
mà y học được phép chữa bịnh theo lối tự nhiên và bằng chất thảo mộc. Trong các
cuộc soi kiếp, nếu người nào trước kia đã từng có tiếp xúc chặt chẽ với người
thổ dân châu Mỹ, hoặc chính họ là những người thổ dân da đỏ trong kiếp trước, đều
tỏ ra có khuynh hướng sống một đời sống tự nhiên nơi chốn rừng bụi, ưa thích cảnh
thiên nhiên, thích làm những công việc bằng tay chân, và dùng cách chữa bịnh
theo phương pháp tự nhiên.
Trong kiếp thứ hai, vị y sĩ trông coi các nhà tắm
công cộng và chuyên về phép thoa bóp ở La Mã dưới thời kỳ bắt đầu kỷ nguyên Gia
Tô. Trong kiếp thứ ba, y sống ở Ba Tư và trong kiếp thứ tư, đi thụt lùi về dĩ
vãng, ông làm nghề ướp xác bằng dầu thơm ở xứ cổ Ai Cập, độ 13.000 năm trước
Tây lịch kỷ nguyên. Có lẽ kinh nghiệm của ông trong kiếp đó đã giúp cho ông có
sự hiểu biết về những bộ phận bên trong cơ thể con người cùng ảnh hưởng của chất
liệu và cỏ thơm đối với da thịt con người.
Trường hợp sau đây là của một nhà mỹ nghệ Ở
Hollywood, làm giám đốc chuyên môn về màu sắc trong một hãng phim điện ảnh. Cuộc
soi kiếp cho biết ông đã từng sống về ngành mỹ thuật trong ba kiếp trước. Tất cả
có bốn tiền kiếp đã được soi thấu: Trong một kiếp, ông làm nhà trang hoàng nhà
cửa vào cuối thời kỳ khai mở thuộc địa, ở Bắc Mỹ; trong kiếp kế đó, ông làm sĩ
quan trong quân đội kỵ binh ở Nga; kế đó nữa ông làm nhà trang trí mỹ thuật cho
một bà Hoàng ở xứ Đông Dương; và trong kiếp xa xưa nhất, ông làm người trang
hoàng bên trong của Ngôi Đền Lớn ở xứ cổ Ai Cập. Người ta có cảm tưởng rằng nhờ
kinh nghiệm trong kiếp làm sĩ quan kỵ binh mà kiếp này ông phát triển những đức
tánh linh hoạt, tỉ mỉ, cẩn thận và ham hoạt động, cùng với tánh thích chưng diện
và lòng háo thắng. Như vậy, nhiều điểm trong tánh tình nó giúp cho công việc
làm của ông ở kiếp này có thêm phần sinh khí và linh động, dường như được truy
nguyên từ những kinh nghiệm ở kiếp làm sĩ quan kỵ binh, mà nghề quân nhân lại
là một ngành không có liên quan gì đến mỹ thuật. Còn những kỹ thuật sắc xảo về
phương diện nghề nghiệp của y thì có thể truy nguyên từ ba kiếp dành cho sự hoạt
động về nghệ thuật.
Một nhà soạn nhạc tiếng tăm ở New York cũng đã có
trong quá khứ những kinh nghiệm về ngành này trong nhiều tiền kiếp. Trong một
kiếp trước, hồi thời kỳ khai thác thuộc địa ở Bắc Mỹ, ông đảm nhiệm những lớp dạy
âm nhạc và dạy hát trong các trường. Một kiếp khác, ông là người Đức, làm nghề
đẽo cây và chế tạo các loại đờn dây. Một kiếp thứ ba, ông làm hề tại triều vua
Nabuchodonosor ở xứ Chaldeẹ Kiếp cuối cùng lui về quá khứ, ông là một người dân
Atlante đến xứ Ai Cập và lãnh vai trò coi sóc phần âm nhạc trong những cuộc tế
lễ ở các đền thờ. Sự thích thú của ông về âm nhạc trong kiếp này dường như là
do bởi kinh nghiệm của ông trong kiếp làm nghề chế tạo đờn. Tánh hài hước và
trí óc linh hoạt của ông được truy nguyên ra từ kiếp trước làm hề; và những khả
năng về âm nhạc của ông được truyền lại từ hai kiếp làm nhạc sĩ.
Đôi khi những thú vui tiêu khiển ngoài vòng hoạt động
nghề nghiệp của một người cũng được truy nguyên ra từ những tiền kiếp. Thí dụ
như trường hợp của một viên giám đốc ngân hàng, từ thuở nhỏ đã tỏ ra ham thích
chơi các môn thể thao, nhứt là chơi môn quần vợt. Khi vị mục sư nhà thờ
Baptiste, mà ông là một tín đồ, tỏ ý chống lại việc chơi môn đánh banh vào ngày
chúa nhật, thì vị giám đốc ngân hàng liền tức khắc rời khỏi giáo hội! Ngân hàng
đã trở nên ngành hoạt động nghề nghiệp của ông và nhờ đó ông đã thâu hoạch được
một sản nghiệp lớn. Nhưng ông thường dùng thời giờ rảnh để tham gia một câu lạc
bộ đánh quần vợt. Chúng ta hãy thử xét những nghề nghiệp của ông trong các tiền
kiếp: Trước hết, ông là một trong những người khai thác thuộc địa đầu tiên, làm
nghề xuất nhập cảng ở Bắc Mỹ. Trong kiếp kế đó, ông là người La Mã, đảm nhiệm
việc tổ chức các trò du hí công cộng tại các vũ trường. Một kiếp nữa, ông là
người tù trưởng của một bộ lạc lưu động ở Ba Tư, chuyên môn tổ chức những trung
tâm trao đổi hàng hóa. Trong kiếp thứ tư, ông là quan Thủ Kho ở triều đình xứ
Ai Cập thời cổ. Người ta nhận thấy rằng ba kiếp trong số đó đã trực tiếp ảnh hưởng
đến nghề nghiệp và ngành ngân hàng của ông bây giờ. Kiếp thứ hai làm nhà tổ chức
các cuộc du hí ở La Mã, đã giúp cho ông có khả năng lãnh đạo, nhờ đó có thể tiến
lên địa vị Giám đốc ngân hàng. Đồng thời, kinh nghiệm ở kiếp đó cũng là nguyên
nhân sự thích thú của y về các môn điền kinh, thể dục ở kiếp này.
Trong các cuộc soi kiếp về vấn đề hướng nghiệp, ông
Cayce thường khuyên một số người nên theo đuổi môn học chữa bịnh bằng điện lực,
hóa học hay thủy lực học và âm nhạc. Môn chữa bịnh bằng điện ngày nay đã thịnh
hành rất nhiều, những lời khuyên của ông Cayce đối với số người nói trên vốn
căn cứ trên những kinh nghiệm trong những tiền kiếp của họ Ở Ai Cập hay ở châu
Atlantide.
Dường như vào khoảng 10.000 năm trước Tây lịch, hồi
thời kỳ tai biến cuối cùng trong ba cơn thiên tai lớn đã tiêu diệt châu
Atlantide, người tị nạn đã di cư sang Ai Cập họ đã đem theo những kiến thức và
tiến bộ của họ về nghệ thuật và khoa học. Tuy rằng họ không thể xây dựng trở lại
nền văn minh hùng cường và cao của họ nữa, những gì còn sót lại về khoa học và
kiến thức của họ đã hỗn hợp với nền văn minh Ai Cập. Trong tất cả những trường
hợp mà ông Cayce khuyên đương sự nên theo đuổi ngành chữa bịnh bằng điện lực, đều
có một điểm lý thú chung: Tuy rằng ngành này là một ngành hoạt động khá mới mẻ
đối với thế giới hiện nay, nhưng nó là một ngành học thuật rất cổ mà ngày xưa cổ
nhân đã từng biết rõ.
Trong nhiều trường hợp mà các đương sự tỏ ra thích
thú say mê ngành hàng không, điện tử, vô tuyến điện ảnh, khoa thôi miên, nguyên
tử lực... Sự thích thú này đều được truy nguyên từ những kinh nghiệm của đương
sự trong một kiếp trước ở châu Atlantide. Bởi đó người ta có thể kết luận rằng
khi nào một người có khuynh hướng hoặc tài năng rõ rệt về một môn khoa học hay
một ngành hoạt động nào, thì chắc chắn rằng trong một hay nhiều kiếp trước, người
ấy đã từng theo đuổi và thực hành môn ấy, hoặc là một ngành hoạt động tương tự.
Nhiều trường hợp khác đưa đến một kết luận rằng sự
thay đổi nghề nghiệp cũng không phải là một sự thất bại, nếu sự thích thú về
nghề mới chọn có căn cứ chắc chắn trong dĩ vãng, và khả năng về nghề nghiệp này
đã được phát triển trong kiếp trước. Thí dụ, dưới đây là trường hợp của một người
31 tuổi, mặc dầu đã có gia đình nhưng ông lại quyết định theo đuổi việc học Y khoa.
Vì những lý do nào đó, ông không thể theo ngành Y học từ thuở còn niên thiếu, mặc
dầu cha ông là một bác sĩ, và ông có hoàn cảnh thuận tiện để học về ngành này.
Ông yêu cầu ông Cayce dành cho một cuộc soi kiếp. Ông muốn biết xem quyết định
của ông có thể thực hiện được không, và sau cùng ông sẽ thành công hay không về
nghề y khoa. Cuộc soi kiếp hoàn toàn xác nhận là được, và cho biết rằng sự
thích thú của ông về ngành này truy nguyên ra từ hồi thời kỳ khởi nghĩa ở Mỹ quốc.
Kiếp đó, y là một người línhh hầu, làm tùy phái đưa thư tín trong quân đội. Dường
như nhờ lòng từ thiện và khả năng thông cảm nên ông được cấp trên giao cho công
tác đi phủ dụ và nâng đỡ tinh thần binh sĩ. Chín trong lúc đó, ông nảy sinh ra
ý muốn trở nên một y sĩ. Cảnh tượng đau khổ của những thương binh ngoài mặt trận
làm cho ông muốn có sự hiểu biết về phương tiện nghề nghiệp của một y sĩ để làm
xoa dịu những đau khổ đó.
Điều lý thú mà ta nên nhận xét là đương sự đã chọn
người cha làm y sĩ để đầu thai vào làm con trong gia đình trong kiếp này. Điều
này hẳn là một hoàn cảnh thuận tiện để cho ông bước vào nghề y khoa. Tuy rằng
người ta không biết rõ lý do vì sao ông quyết định hơi trễ để theo học về ngành
này, nhưng có lẽ đó là vì y lập gia đình sớm. Có thể rằng giữa hai vợ chồng y,
có một sự hấp dẫn mãnh liệt do duyên nghiệp tạo nên từ kiếp trước, và cuộc hôn
nhân đó đã làm cho ông tạm gác lại các mục đích khác, nhưng điều quan trọng là
cuộc soi kiếp tiên đoán trước sự thành công của ông trong một ngành mà ông mới
theo đuổi lần đầu tiên.
Nói tóm lại, việc truy nguyên các khả năng nghề nghiệp
của một người chỉ rằng các khả năng đó dường như đã được khai mở từ một hay nhiều
tiền kiếp, trong khi đó đương sự đã từng làm nghề nghiệp đó rồi, hay là một nghề
tương tự.
Một sự thích thú say mê về một ngành hoạt động phụ
thuộc chỉ rằng trong kiếp trước, ngành hoạt động đó là nghề nghiệp chính của
đương sự.
Nhiều nghề nghiệp mới xuất hiện trên thế giới hiện
nay thật ra là sự biến thiên của những nghệ thuật và khoa học của người Atlante
và Ai Cập thời cổ. Có vài người dường như mới bước vào một ngành hoạt động mới
lần đầu tiên trong lịch trình tiến hóa của họ. Nếu trong dĩ vãng, họ đã từng
thích thú và phát triển những khả năng về một nghề nghiệp nào, thì sự thành
công trong nghề nghiệp đó ở kiếp này sẽ là một điều chắc chắn.
CHƯƠNG 20
PHƯƠNG CHÂM TRONG VIỆC
CHỌN NGHỀ
Những câu chuyện
thuật lại về khuynh hướng nghề nghiệp trong các tập hồ sơ của Cayce có thể làm
cho người sưu tầm khảo cứu phải nêu ra nhiều câu hỏi. Trước hết, là vấn đề bắt
đầu làm một nghề nghiệp, một vấn đề đã làm cho các triết gia phải thắc mắc khi
họ cố gắng truy nguyên đến tận gốc, khi linh hồn con người mới xuất hiện lần đầu
tiên trên cõi trần gian. Việc gì thúc đẩy một ngành hoạt động này, và một linh
hồn khác bước vào một ngành hoạt động khác? Nếu tất cả mọi linh hồn đều do Thượng
Đế phát sinh từ lúc nguyên thủy, nghĩa là bình đẳng và không cách biệt, thì tại
sao có người lại hướng về nông nghiệp, có người chọn thương mại, người thứ ba
chọn nghề dệt cửi, người thứ tư hướng về âm nhạc, và người thứ năm chọn ngành
toán học?... Phải chăng trong mỗi người đều có một cái động lực tế nhị thuộc về
cá tính riêng từng người, nó thúc đẩy họ vươn lên chọn lựa những ngành hoạt động
khác nhau? Nếu như thế, thì cái cá tính đó đã biểu lộ bằng cách nào?
Trong những hồ sơ của Cayce, không có sự giải đáp rõ
ràng những câu hỏi nêu trên, nhưng lại có những tài liệu khá mỹ mãn về một điểu
khác: Việc gì làm cho một linh hồn thay đổi một nghề nghiệp này qua một nghề
nghiệp khác? Người ta thấy trong các hồ sơ của Cayce có nhiều trường hợp thay đổi
nghề nghiệp như vậy, và sự phân tách các tài liệu chỉ rằng sự thay đổi đó căn cứ
trên hai yếu tố căn bản: Hoặc do lòng ham muốn, hoặc do luật nhân quả.
Trong nhiều trường hợp đã kể trên, chúng ta thấy rằng
lòng ham muốn cũng có mãnh lực tương đương với việc gây nhân tạo quả. Một linh
hồn có thể bắt đầu nảy sinh ra ý muốn có một khả năng hay một đức tính mới, khi
họ chung đụng tiếp xúc vởi một người có cái khả năng hay đức tính đó. Theo ông
Cayce, nhiều người mục kích tận mắt những công việc cứu độ thế gian của đức
Jesus khi Ngài đi thuyết pháp giảng đạo và cứu chữa người đau ốm, tật nguyền, bỗng
nhiên họ có sự cảm hứng, chẳng khác như một sự truyền nhiễm, và muốn làm được
như Ngài! Cái mãnh lực của ý muốn đó thúc đẩy họ cố gắng trải qua nhiều kiếp để
phát triển khả năng giáo dục và chữa bịnh. Đôi khi, lòng ham muốn không phải do
nơi ảnh hưởng của một người nào, mà do bởi đương sự cảm thấy bất lực trước một
tình trạng nguy cấp mà thiếu khả năng cần thiết, nên y không thể giải cứu hay
làm gì được. Dầu rằng lý do như thế nào, lòng ham muốn là một yếu tố quan trọng
của vận mạng con người. Lòng ham muốn đó tăng trưởng lên lần lần và nhắm những
mục đích càng ngày càng rõ rệt cho đến khi về sau, bởi sự chọn lựa cha mẹ và một
hoàn cảnh thích nghi, một linh hồn bắt đầu phát triển một khía cạnh mới trong
tánh tình của y cho đến mức hoàn toàn.
Có lẽ phải cần đến nhiều kiếp luân hồi sanh tử, cũng
như trong các trường hợp tâm tính "khép chặt" và "cởi mở",
con người mới có thể hoàn toàn thực hiện sự thay đổi một nghề này qua nghề khác
dưới mãnh lực của ý muốn. Nếu điều này là đúng, thì đó là một sự khuyến khích
quý báu cho những người nào tự thấy kém cỏi trong sự hoạt động nghề nghiệp của
mình. Có thể rằng lý do sự kém cỏi của họ, so với tài năng của người khác, là bởi
vì họ chỉ mới bắt đầu ngành hoạt động ấy không bao lâu, và chưa đủ thời giờ để
phát triển hết mọi tài năng của mình.
Ngoài lòng ham muốn, nghiệp quả cũng là một yếu tố
quan trọng trong việc quyết định thay đổi nghề nghiệp.
Thí dụ: Một quả báo tàn tật về thể xác, khi đến lúc
chính mùi và phải trả, có thể làm gián đoạn cuộc đời nghệ sĩ tài ba đang lên của
một nhà khiêu vũ, một sự nghiệp mà ông đã dày công luyện tập và cải tiến đến mức
tuyệt luân trải qua nhiều tiền kiếp. Một quả báo làm gián đoạn nữa chừng một sự
nghiệp như thế, tự nhiên là đưa đến sự thay đổi qua một nghề nghiệp khác, và có
thể làm thức động một khả năng tiềm tàng đã bị chôn vùi và quên lãng từ lâu.
Đó là trường hợp của một thiếu nữ bị bịnh lao xương
háng, như đã kể trong chương năm. Sau khi mắc phải chứng bịnh này một thời gian
rất lâu, thiếu nữ ấy yêu cầu ông Cayce soi kiếp và cho biết xem cô có thể làm
nghề gì trở nên hữu ích cho xã hội. Ông Cayce khuyên cô nên học đàn, và cho biết
thêm rằng cô có thiên tư về âm nhạc, vì trong một kiếp trước ở xứ cổ Ai Cập, cô
đã từng chuyên môn về loại đờn dây. Người thiếu nữ nghe theo và nhận thấy rằng
quả có một khả năng vững chắc về đờn dây, mặc dầu trước kia cô chưa hề học đàn
bao giờ. Sau một thời gian, cô đã có thể biểu diễn môn đờn dây trước công
chúng, và mặc dầu tài nghệ của cô chưa đủ để làm cho cô được nổi tiếng, nhưng
ít nhất cô đã làm một nghề hữu ích để tìm thấy lẽ sống cùng hạnh phúc trong cuộc
đời của một phế nhân. Trong những kiếp trước gần đây, cô đã làm những nghề nghiệp
khác. Như vậy, trong trường hợp này, một quả báo xác thân đã xuất hiện thình
lình để làm gián đoạn một sự nghiệp, và làm sống lại một tài năng đã quên lãng
và bỏ phế từ lâu.
Một vấn đề khác được nêu ra: Một linh hồn phải có
kinh nghiệm về bao nhiêu nghề nghiệp khác nhau trước khi sự tiến hóa của y được
coi như là tròn vẹn? Để đi đến mức tuyệt đỉnh của cuộc tiến hóa, mỗi linh hồn
phải trải qua rất nhiều kinh nghiệm khác nhau. Trong Thái Dương hệ, không có một
linh hồn nào được coi như đã phát triển hoàn toàn về nghệ thuật chẳng hạn, nếu
đồng thời y lại hoàn toàn dốt về ngành cơ khí, y học, hay xã hội học. Người ta
có thể quan niệm rằng mỗi linh hồn phải trải qua ít nhiều hiểu biết và kinh
nghiệm về tất cả mọi ngành học thuật và hoạt động trong hoàn vũ.
Trong rất nhiều trường hợp, có một sự liên hệ chặt
chẽ giữa vấn đề nghề nghiệp và vấn đề tâm linh. Nói một cách khác, trong nhiều
trường hợp, một sự khó khăn về nghề nghiệp dường như là có nguyên nhân ở một sự
khuyết điểm về tánh tình, cần phải được sửa chữa. Đó là trường hợp của một người
đàn ông độc thân, bốn mươi tám tuổi, là nhân viên địa ốc, vì tánh tình khó
khăn, nên càng ngày ông càng bị lúng túng trong việc hành nghề của ông. Ông yêu
cầu ông Cayce soi kiếp để biết xem y có nên đổi nghề khác hay chăng, và nghề
nào sẽ thích hợp với y. Ông Cayce cho biết rằng trong một kiếp trước ông đã làm
nghề dạy học, nhưng ông có một tánh chất hung bạo, cộc cằn, và độc đoán. Ông đã
mang theo cái mầm mống của tánh chất cứng rằng và bạo tàng đó qua kiếp này, nó
làm cho ông khó hòa mình trong sự giao tiế ngoài xã hội. Ông Cayce khuyên không
nên đổi nghề mặc dầu ông đang bị nhiều nỗi khó khăn trong nghề nghiệp. Cuộc soi
kiếp nói: "Mặc dầu điều đó không phải dễ làm, nhưng anh đang học một bài học
cần thiết."
Có nhiều trường hợp tương tự như thế trong tập hồ sơ
Cayce, làm cho người ta nhớ lại một tư tưởng của Tolstoi. Nhà văn hào này nói rằng
những hoàn cảnh trong đời người giống như những giàn tre dùng để cất nhà. Những
giàn tre này được dựng lên để làm cái sườn chung quanh, nhờ đó một ngôi nhà lầu
được xây dựng lên ở phía trong. Nhưng cái sườn tre bên ngoài vốn không có một
giá trị tuyệt đối và trường cửu. Khi ngôi nhà lầu đã dựng lên xong, thì người
ta dẹp bỏ cái giàn tre ở phía ngoài. Có lẽ những nghề nghiệp làm ăn của con người
cũng có thể được quan niệm bằng cách đó, giống như những cái sườn hay cái khuôn
để nung đúc nên những điều kiện cần thiết cho sự tiến hóa tâm linh.
Một mặt khác, những khuynh hướng nghề nghiệp không
phải luôn luôn đều có mục đích phát triển đức tính. Nó có thể là cần thiết cũng
như bao nhiêu những ngành khác thuộc về cõi giới vật chất, mà con người phải
chinh phục bằng tinh thần. Có lẽ nhờ đó mà con người sẽ tập chế ngự vật chất,
hiểu những nguyên tắc và định luật của đời sống và hợp tác với Thiên Cơ.
Những tập hồ sơ Cayce chứa đựng nhiều tài liệu về cuộc
đời một số người, mà những khả năng đã bị quên lãng từ lâu và chôn vùi trong những
chỗ thâm sâu kín đáo của tiềm thức. Cuộc soi kiếp nhắc nhở cho đương sự chú ý đến
những khả năng tiềm tàng đó, và trong rất nhiều trường hợp, những khả năng một
khi đã thức tỉnh, liền có thể nảy nở mau chóng để trở thành một thiên tư đặc biệt
về nghề nghiệp. Người ta có thể truy nguyên khả năng đặc biệt này ở những kinh
nghiệm mà đương sự đã thâu nhập được trong những tiền kiếp. Biết được điều này,
tức là biết rằng mọi người trong chúng ta có dự trữ trong tiềm thức một số vốn
kiến thức hay khả năng chưa được dùng đến, cũng ví dụ như thình lình chúng ta
được biết rằng trong một thành phố mà chúng ta ở từ thuở nhỏ, chúng ta có một số
tiền dự trữ trong ngân hàng, nhưng đã quên hẳn từ lâu.
Những sự say mê thích thú của chúng ta về một ngành
nào đều có thể truy nguyên từ những hoạt động của ta trong những kiếp trước về
ngành ấy. Có người chỉ thích thú đặc biệt về những sự vật của xứ Tây Ban Nha;
hoặc có người chỉ ưa thích những sự vật của xứ Trung Hoa, hay Nhật Bổn chẳng hạn;
đó chắc là họ đã từng sống kiếp trước ở những xứ ấy. Nếu những người ấy biết
trau dồi, khuynh hướng của họ bằng cách học sinh ngữ Tây Ban Nha, hoặc khảo cứu
về lịch sử và văn hóa Trung Hoa hay Nhật Bản, họ có thể làm thức động những ký ức
sâu xa trong tiềm thức và những khả năng đã thâu nhập được trong kiếp trước ở xứ
ấy. Nhờ đó, họ cũng có thể tiếp xúc với những người trong những kiếp trước đó.
Sự gặp gỡ với những người mà ta đã công nhận duyên cũ từ kiếp trước có thể hoàn
toàn làm thay đổi cuộc đời của chúng ta bằng cách mở cửa cho chúng ta bước vào
những địa hạt hoạt động mà chúng ta không hề nghĩ đến. Việc làm đầu tiên trong
vấn đề hướng nghiệp là kiểm điểm lại những khả năng của mình, chọn lấy khả năng
trội nhất của đương sự.
Nhưng trong những trường hợp khả nghi không quyết
đoán, hoặc cần đưa ra cho đương sự những cảnh cáo đặc biệt nào đó, thì ông
Cayce thường đưa ra những nguyên tắc đại cương cho họ. Những nguyên tắc đó thường
được lặp lại, nhiều lần, đến nỗi ngưòi ta có thể coi đó như những giáo điều căn
bản cho việc chọn nghề nghiệp.
Nguyên tắc thứ nhất là: Hãy nêu cao một lý tưởng, định rõ mục đích sâu xa
của cuộc đời mình, và tìm cách thực hiện lý tưởng đó. Sự nêu cao lý tưởng là một điều quan trọng trong vấn đề hướng nghiệp. Những
cuộc soi kiếp đều nhấn mạnh rằng ta nên biết minh bạch rõ ràng về cái lý tưởng
của mình, thường là phức tạp nhưng sẽ chỉ cho chúng ta có thể đi đúng con đường
của mình muốn đi tới. Sự lựa chọn nghề nghiệp phải căn cứ trên việc đề cao lý
tưởng trước nhất.
Nguyên tắc hai là: Hãy cố gắng giúp đỡ và phụng sự kẻ khác. Bằng cách nào ta có thể phụng sự nhân loại cho được hiệu quả nhất? Đó là
phương châm tối hậu để làm tiêu chuẩn cho việc chọn lựa nghề nghiệp của mỗi người.
Ta nên coi mình như những phần tử của nhân loại. "Phụng sự kẻ khác, tức là
phụng sự Thượng Đế một cách cao cả nhất". Đó là một câu thường được lặp đi
lặp lại trong các cuộc soi kiếp. Một câu khác nữa cũng thường được nhắc lại nhiều
lần: "Kẻ nào muốn trở nên cao cả nhứt trong các ngươi, là kẻ chịu làm tôi
tớ phụng sự cho tất cả". "Chỉ có một lý tưởng duy nhất, là làm cho mọi
lý tưởng của ta đều hỗn hợp với sức mạnh Sáng Tạo của Vũ Trụ; làm cho thể xác,
trí tuệ, tâm linh của chúng ta trở nên mãnh lực tích cực hoạt động để bồi đắp,
trợ giúp cái sức Sáng Tạo nói trên và cho nhân loại".
Đi kèm với phương châm này, ông Cayce còn nói rằng vấn
đề tiền bạc, danh vọng ở đời phải đi sau ý muốn phụng sự, và chỉ là những vấn đề
phụ thuộc mà thôi. Một đứa trẻ mười ba tuổi có nhiều khả năng và chưa biết nên
theo học về ngành nào, đặt câu hỏi: "Tôi phải phát triển khả năng nào để
khi đến lúc trưởng thành tôi có thể thành công về phương diện tiền bạc?"
Câu trả lời là: "Em hãy quên vấn đề tiền bạc, mà chỉ nên nghĩ rằng em có
thể trợ giúp bằng cách nào để làm cho cõi thế gian trở nên một cõi giới tốt
lành hơn. Đừng khi nào lãng phí công lao cố gắng chỉ vì vấn đề tiền bạc. Tiền bạc
sẽ đến với ta khi ta dùng khả năng của mình để phụng sự nhân loại".
Một người khác hỏi: "Tôi nên theo đuổi ngành hoạt
động nào để có thể kiếm được nhiều tiền nhất?" Câu trả lời cho ông là:
"Anh hãy gác lại vấn đề tiền bạc. Vấn đề tiền phải là cái hậu quả của sự
thành thật cố gắng muốn sống cách nào để giúp cho kẻ khác cùng đi trên con đường
tiến hóa với mình. Sự thịnh vượng về vật chất phải đi sau lý tưởng phụng sự. Chỉ
có Thượng Đế mới cho ta sự phú quý thịnh vượng, nếu ta xứng đáng".
Một nhà xuất nhập cảng được lời khuyên sau đây:
"Phương châm của ông phải là: Tôi muốn phụng sự đồng loại của tôi, để cho
họ có thể dùng tôi làm cái đà tiến bước. Tiền tài danh vọng sẽ đến với tôi như
những kết quả của một đời tốt lành và phụng sự; chứ ta không nên coi nó như những
miếng mồi thơm vì nó mà ta phải hành động trái với lương tâm để chiếm đoạt cho
được."
Nguyên tắc thứ ba là: "Hãy sử dụng những gì mình đang có trong tay.
Hãy bắt đầu từ chỗ vị trí hiện tại của mình bây giờ". Câu này dường như thừa, vì đó là lẽ hiển nhiên. Tuy vậy, cũng như những sự
thật hiển nhiên khác, nó cần được lập lại, vì người ta vốn hay khinh thường những
điều giản dị và gần với mình, để đi tìm những chuyện xa vời, khó khăn. Có nhiều
người muốn phụng sự nhân loại, nhưng lại có một lý tưởng quá viễn vông, không
thiết thực, hoặc không phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Tron khi họ nhìn thấy
cái mục đích cao cả, đáng cho họ theo đuổi, thì họ lại bị mắc kẹt trong một cuộc
đời phức tạp mà họ không thể nào thoát ra khỏi. Những trách nhiệm gia đình, hay
những trở lực về tài chánh, làm ngăn trở sự thực hiện lý tưởng của họ. Đối với
những người này, những cuộc soi kiếp thường khuyên rằng: "Người ta chỉ có
thể sử dụng những gì người ta có trong lúc này". Cuộc hành trình dài muôn
dặm đường chỉ bắt đầu bằng một bước chân. Bước chân đầu tiên đó, người ta phải
làm ngay bây giờ ở chỗ vị trí hiện tại.
Một người đàn bà 49 tuổi hỏi ông Cayce: "Tôi phải
làm công việc gì trong đời tôi?" Câu trả lời là: "Bà hãy giúp đỡ những
kẻ yếu đuối và những kẻ vấp ngã; giúp thêm sức mạnh và can đảm cho những kẻ thất
bại". Bà ấyhỏi: "Bằng cách nào tôi có thể làm công việc đó?" Bà
hãy bắt đầu với những cơ hội hiện tại. Hãy sử dụng những gì bà đang có và bắt đầu
ngay ở chỗ bà đang ở. Bà hãy tin tưởng ở nơi Thượng Đế. Bà đừng nói rằng bà muốn
làm công việc gì và ở tại nơi nào, mà hãy nói rằng: Tôi tự hiến dâng cho Ngài.
Ngài hãy dùng tôi vào bất cứ công việc gì, và bất cứ nơi nào Ngài muốn".
Một người đàn bà khác cũng có sự thắc mắc giống như
thế. Bà ấy đã 61 tuổi, vợ của một vị lãnh sự nọ ở xứ Bắc Âu. Bà ta đã đi du lịch
nhiều nơi ở miền Trung Đông và có nhiều kiến thức sâu rộng. Bà ấy hỏi:
"Tôi phải làm gì để phụng sự nhân loại một cách hữu hiệu nhất?" Câu
trả lời cũng giống như trường hợp kể trên: "Bà hãy làm bất cứ việc gì đến
với bà hằng ngày. Không phải những kẻ làm nên những kỳ công hiển hách, tiếng
tăm vang dội lẫy lừng như sóng cồn đại hải, mới là những kẻ làm được nhiều việc
nhất; mà chính là những người biết đón nhận những cơ hội phụng sự xảy đến hằng
ngày. Khi những cơ hội ấy được tận dụng triệt để, thì những dịp tốt lành hơn sẽ
xuất hiện, và những công việc phụng sự lớn lao sẽ đến với họ. Đó là bởi vì khi
ta dùng những phương tiện đang có trong hiện tại để phụng sự kẻ khác, thì những
phương tiện ấy sẽ không bao giờ mất, mà tự nó sẽ đến với ta một cách dồi dào
hơn trước".
Một người khác cũng nhận được lời khuyên: "Anh
hãy bắt đầu ở chỗ vị trí hiện tại của anh. Và khi anh đã làm xong bổn phận, Ơn
Trên sẽ khiến cho anh gặp gỡ những cơ hội tốt lành và lớn lao hơn!" Lời
khuyên có vẻ triết lý này không những áp dụng cho những người thình lình giác
ngộ và có ý muốn phụng sự nhân loại, mà cũng áp dụng cho cả những người muốn
làm những việc to tát, vang dội tiếng tăm, bất cứ trên lĩnh vực hoạt động nào.
Dường như sự lập đi lập lại trong các cuộc soi kiếp về việc "Người ta cần
phải sử dụng những gì mình đang có trong tay và nên bắt đầu từ chỗ vị trí hiện
tại của mình", là để chống lại hai khuynh hướng thường tình của người đời,
đó là: Sự tê liệt, không hoạt động vì kiến thức hẹp hòi nông cạn; và sự tê liệt
vì một tầm nhãn quang quá bao quát rộng lớn.
Có nhiều người biết mục đích mà họ muốn thực hiện
trên các địa hạt nghệ thuật, văn hóa, khoa học hay chính trị. Nhưng vì một sự
tính toán sai lầm, họ bỏ dở giữa chừng và không làm gì cả: Mục đích của họ dường
như không thể thực hiện được. Vì họ không biết rõ về tính cách liên tục của mọi
cố gắng và mọi sinh hoạt trong đời sống con người, nên họ không nhận thức rằng
thời gian không có quan hệ gì cả, và những gì đã bắt đầu trong một kiếp sẽ đem
lại kết quả trong kiếp sau. Họ lầm tưởng rằng vì thời gian ngắn ngủi, nên họ
không thể thực hiện được mục đích, thí dụ như trở nên một nhạc sĩ tài hoa trong
kiếp này. Họ bị tê liệt cả ý chí tiến thủ, bỏ dở việc học âm nhạc: Bởi đó họ đứng
một chỗ không tiến thêm nữa, và trong những kiếp sau họ lại khởi sự học lại từ
chỗ bắt đầu! Nhưng nếu họ biết áp dụng lời khuyên đầy minh triết của ông Cayce
là hãy bắt đầu từ chỗ vị trí hiện tại và sử dụng những gì mình đang nắm trong
tay, thì sự tê liệt kia sẽ không còn, và họ sẽ dùng nghị lực của họ để hoạt động
theo đúng đường lối, với nhiều triển vọng tốt đẹp và tin tưởng nơi sự thành
công trong tương lai.
Ngoài ra, có những người nhờ thuyết Luân Hồi đã hé mở
cho họ nhìn thấy cái viễn ảnh của một tương lai xán lạn huy hoàng, nhưng họ lại
không diễn đạt cái đức tin đó ra bằng những hành động xử thế hằng ngày. Nhiều
nhà triết học và nhân chủng học mãi đắm chìm trong việc học hỏi khảo cứu các định
luật thiên nhiên trong Vũ trụ, nó cai quản sự tiến hóa tâm linh của nhân loại,
đến nỗi họ quên rằng sự tiến bộ của con người không phải chỉ được thực hiện bằng
sự học hỏi suông mà thôi. Họ chẳng khác nào như người du khách mãi lo nghiên cứu
lộ trình trên tấm bản đồ một cách chăm chú và say sưa đến nỗi họ không bao giờ
cất bước ra đi! Họ mảng lo nhồi sọ với những vấn đề trừu tượng siêu hình đến nỗi
khi cần phải thực hiện một sự thay đổi tâm tính hay làm một việc hữu ích để
giúp đỡ nhân loại, thì lại thờ ơ chểnh mảng và hoàn toàn vô dụng.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce luôn luôn nhắc nhở
cho chúng ta biết rằng dầu cho chúng ta sống trong hoàn cảnh nào, những hoàn cảnh
đó đều hoàn toàn thích hợp với tình trạng tiến hóa tâm linh của chúng ta trong
lúc hiện tại. Dầu cho chúng ta gặp phải những hoàn cảnh khó khăn trái ngược,
chúng ta cũng nên coi đó như là những cái phương tiện để giúp chúng ta lấy đà
tiến bước, chớ không nên coi đó như là những chướng ngại. Khi ta biết vượt qua
những khó khăn trở ngại đó, thì chúng ta mới được coi như là xứng đáng nhận
lãnh những hoàn cảnh tốt lành và thuận tiện hơn. Trong một cuộc soi kiếp có lời
khuyên như sau:
"Anh hãy nhớ rằng dầu anh sống trong hoàn cảnh
nào, điều đó cũng là cần thiết cho sự tiếp xúc hằng ngày với mọi người, và
chính là nhờ sự cải thiện từng ngày, từng giờ, từng phút đó mà anh thực hiện cuộc
tiến hóa dài hạn của anh trong tương lai. Chính nhờ xây từng viên gạch nhỏ, mà
người ta mới dựng nên một ngôi nhà lầu nhiều tầng. Khi một linh hồn đã chuẩn bị sẵn sàng để phụng sự,
nhờ sự công phu cố gắng cải tiến không ngừng từng giờ từng phút, mà những điều
kiện cần thiết cho sự tiến hóa của y sẽ xuất hiện để giúp cho y có thể tiến hóa
mau hơn, và gặp những hoàn cảnh cùng cơ hội thuận tiện hơn”.
"Vậy anh hãy xây dựng tương lai của anh cũng
như một toà nhà lầu, với những gì anh có sẵn trong tay, và tuần tự xây từng những
viên gạch nhỏ. Anh chớ nên nóng nảy vội vàng và băn khoăn lo lắng: Tất cả mọi sự
xây dựng chẳng phải là công trình sáng tạo thiêng liêng của Ngài ư?"
CHƯƠNG 21
BÍ QUYẾT ĐÀO TẠO KHẢ
NĂNG
Những điều tiết lộ
của ông Cayce về những khả năng của con người và sự phát triển khả năng một
cách liên tục từ kiếp này qua kiếp khác, có những ảnh hưởng rất sâu sắc về
phương diện thực tế. Trước hết, nó trình bày cho ta thấy những triển vọng vô giới
hạn về sự tiến hóa của con người, và điều này tùy ở sự cố gắng của từng cá
nhân. Nói về những khả năng tiềm tàng được tích tụ từ lâu trải qua thời gian,
thì người ta có thể sử dụng lần hồi chẳng khác nào như một số vốn cất trong ngân
hàng. Lẽ tự nhiên, những nguồn tài nguyên tiềm tàng về khả năng và đức tánh của
mỗi người hoàn toàn tùy thuộc nơi cố gắng mà y đã thực hiện trong dĩ vãng, và
đã tích tụ trong kho tàng tâm linh của y.
Điều này cũng áp dụng cho những khả năng của ta trong
tương lai. Cũng như những khả năng của chúng ta bây giờ là do sự cố gắng tích
lũy từ thuở quá khứ, thì những khả năng mà ta sẽ có trong tương lai cũng là do
bởi những cố gắng của ta đang làm ngay bây giờ. Những số vốn nghị lực, thời giờ
và công phu khó nhọc mà chúng ta dùng để thu thập một khả năng trong kiếp hiện
tại sẽ không phải là mất, mà sẽ mang lại kết quả cho ta sử dụng trong những kiếp
tương lai.
Trên thế gian có hàng nghìn người âm thầm cố gắng
theo đuổi một chí hướng nuôi từ thuở nhỏ mặc dầu họ biết chắc rằng họ không bao
giờ thực hiện được. Xét theo lối thường tình, thì đó thật là một việc đáng buồn;
nhưng sự cố gắng và thích thú say mê của họ thật ra không phải là hoài công vô
ích nếu người ta xét lại vấn đề dưới ánh sáng của thuyết Nhân Quả Luân Hồi.
Một ông lão cố gắng vun trồng những khóm hoa trong
vườn nhà ông, có lẽ không mong ước chiếm giải quán quân về cuộc thi trồng hoa đẹp;
hoặc được lời khen tặng và biểu dương trong những tạp chí nông nghiệp. Tuy
nhiên, trong lúc hiện tại, ông ta đang xây đắp mầm mống cho sự hiểu biết về
ngành thảo mộc học, để rồi trong một kiếp tương lai, nó sẽ đâm chồi nẩy lộc
thành những kiến thức sâu rộng về ngành này và làm ông ta trở thành một nhà trồng
tỉa trứ danh hay một nhà thảo mộc học uyên bác.
Những cố gắng thô thiển và vụng về của một người đàn
bà đứng tuổi đang tập vẽ tranh, không phải chỉ là một đầu đề chế giễu của bạn
bè thân quyến trong gia đình cô mà thôi; nó còn là những bước đầu cho một nghệ
thuật già dặn và chắc chắn để làm cho cô có thể trở thành một họa sĩ tài danh
trong một kiếp xa gần trong tương lai.
Ông giáo sư âm nhạc trải qua nhiều năm tận tụy với
nghề dạy đờn dương cầm, vẫn cố gắng hành nghề một cách vô danh, không tên tuổi.
Với thời gian trôi qua, năm tàn tháng lụn, ông không còn nuôi hy vọng trở thành
một nhạc sĩ tài danh nữa, nhưng có lẽ ông ta sẽ tự an ủi nếu ông ta biết rằng
chính ông ta đang lần bước đi trên con đường sự nghiệp vẻ vang trong những kiếp
tương lai. Những tiếng đàn du dương gieo vào tiềm thức của ông một ý niệm chắc
chắn về nhịp độ; sự lập đi lập lại những bài đàn dạy học trò, trải qua thời
gian đã gieo trong tâm hồn ông những vết ký ức sâu đậm không thể phai mờ về nhạc
lý. Chỉ trong một, hai, hay ba kiếp nữa, ông sẽ trở thành một thiên tài về đàn
dương cầm, làm cho người đương thời phải ngạc nhiên khâm phục về tài năng xuất
chúng của ông.
Nói tóm lại, theo thuyết Luân Hồi, không có một cố gắng
nào là mất đi. Nếu luật Nhân Quả hành động một cách chắc chắn và vô tư để đem lại
cho ta sự trừng phạt về những hành vi bất chính của mình, thì nó cũng hành động
một cách vô tư chắc chắn để đem lại cho ta phần thưởng về những cố gắng công
phu có tính cách xây dựng. Nếu chúng ta thật tin tưởng nơi điều quan trọng này,
thì chúng ta sẽ không bao giờ bị thất vọng trên đường đời. Mỗi giờ phút trôi
qua, chúng ta đều tự tạo nên tương lai của mình. Cái tương lai đó được tốt đẹp
hay không, là tùy nơi trong lúc hiện tại chúng ta có những cố gắng tốt lành và
xây dựng, hay là chúng ta lãng phí thời giờ vô ích để tìm những thú vui vật chất
phù du giả tạm của cuộc đời trần thế.
Hiểu như thế, người ta sẽ không còn cho rằng giai đoạn
cuối cùng của đời người, thường gọi là lúc "tuổi già", là một giai đoạn
bất lực và vô dụng, cần phải nghỉ ngơi, an phận, và không làm gì cả. "Tuổi
già" hiểu như thế là một sự dị đoan. Theo các cuộc soi kiếp của ông Cayce,
ở xứ Ai Cập cách đây độ mười ngàn năm, đời sống trung bình của con người là
trên một trăm tuổi. Sự ăn uống tiết độ, đúng phép vệ sinh, và bí quyết giữ cho
tư tưởng được lành mạnh trong sạch, giúp cho con người sống rất lâu, và thậm
chí đến lúc tuổi già, họ cũng không đến nỗi rung rẩy lụm cụm. Khoa học hiện đại
cũng đã chứng minh điều này. Khoa Tâm bịnh học (Psychosomatiquie) cũng khám phá
rằng sự già nua một phần lớn do bởi một bệnh trạng tâm lý của đương sự, theo đó
ý nghĩa rằng y là một người vô ích, vô dụng trong xã hội, và đã đến lúc y cần
phải được thay thế bởi những người trẻ.
Sở dĩ họ có thái độ đó bởi vì họ có cái quan niệm
theo "Chiều ngang" về cuộc đời, tức là một thói quen hay so sánh mình
với những kẻ khác trên bình diện "ngang" trong thời gian và không
gian. Nhưng theo thuyết Luân Hồi thì quan niệm chân thật về cuộc đời phải là một
quan niệm theo "chiều dọc". Tự so sánh mình với những người trẻ tuổi
hơn, không những là một điều chướng, mà còn là vô ích vì chúng ta chỉ hoạt động
để tự vươn mình và tiến bộ lấy cho mình, sự tiến bộ của chúng ta không phải là
tương đối với kẻ khác, mà là tương đối với chính mình và với Thượng Đế.
Hiểu như thế, ta sẽ không còn thắc mắc ganh tị với
những người ở vào một hoàn cảnh tốt lành và thuận tiện hơn hoàn cảnh của ta
trong hiện tại. Sự ganh tị chỉ là một ảo tưởng vật chất. Trên phương diện tâm
linh, ta không đua tranh với ai cả, nếu không là với chính linh hồn mình.
Dầu sao, một người đến lúc tuổi già không nên tự coi
như một phế nhân, ở ngoài lề xã hội. Trái lại, trong sự tịch mịch âm thầm, y
nên dành thời giờ còn lại để trau dồi một vài khả năng mới, và học hỏi thêm những
gì mà trước kia vì bận rộn công việc hoặc vì bổn phận gia đình, y không có thời
giờ theo đuổi một cách tận tâm và trọn vẹn. Làm như vậy, y sẽ xây đắp nền tảng
cho sự tiến bộ tâm linh của y trong những kiếp sau. Những cuộc soi kiếp của ông
Cayce thường nói rằng chúng ta nên sống một cách xây dựng cho đến lúc cuối cùng
trong đời ta. Dưới đây là một vài đoạn có ý nghĩa:
"Anh hãy có điều độ trong tất cả mọi chuyện;
không nên làm điều gì thái quá. Được như vậy, anh sẽ sống đến trăm tuổi, với điều
kiện là anh sẽ sống cách nào để xứng đáng với tuổi thọ của anh. Anh có gì để
ban rải cho kẻ khác? Nếu anh không có gì để cho ai, thì anh có quyền gì để sống
cho chật đất?"
Hỏi: "Tôi phải làm sao để tự chuẩn bị cho lúc
tuổi già?"
Đáp: "Cô hãy tự chuẩn bị cho lúc hiện tại. Tuổi
già sẽ làm cho cô khôn ngoan già dặn thêm. Cô hãy dịu dàng, dễ thương và biết
thương người, nếu cô muốn được trẻ trung mãi mãi... "
Hỏi: "Tôi phải làm gì để khỏi bị sự cô đơn khi
tuổi già sắp đến?"
Đáp: "Anh hãy săn tay áo lên và bắt tay vào làm
một việc gì để giúp đỡ một người nào đó. Anh hãy làm cho người khác vui vẻ hạnh
phúc, và hãy tự quên mình để giúp đỡ người chung quanh. Như thế, anh sẽ không
còn sợ sệt lo âu về những gì có thể xảy đến cho mình và sẽ không cảm thấy buồn
chán, cô đơn".
Hỏi: "Tôi phải làm gì để được yên ổn trong lòng
và tìm thấy sự an tịnh?"
Đáp: "Anh hãy giúp đỡ kẻ khác. Anh hãy quyết định
mỗi ngày làm một điều thiện, hoặc giúp một tay nâng đỡ một việc gì cho một người
nào đó cần sự giúp đỡ. Thí dụ: Anh có thể đến viếng thăm một người bịnh, và trò
chuyện an ủi họ. Như thế anh sẽ thấy trong lòng yên ổn, không thắc mắc, nghĩ ngợi,
lo âu".
Như vậy, tính cách liên tục của đời người trở nên một
sự thật đầy ý nghĩa, xét về vấn đề phát triển khả năng và đức tánh trải qua nhiều
kiếp luân hồi sinh tử. Hiểu được chân lý đó, người ta sẽ không còn có sự ganh tị
đối với kẻ khac, vì sự ganh tị là một điều vô ích. Triết gia Emerson nói sẽ có
lúc người ta nhận định rằng thói ganh tị là do sự vô minh mà ra. Điều ấy rất
đúng, nhưng nó chỉ được hiểu rõ là khi nào người ta hiểu thuyết luân hồi. Những
kẻ ganh tị là những người không biết rõ sự kiện này, là bất cứ điều gì người
khác làm được, ta cũng có thể làm được; tất cả những gì người khác có, như sắc
đẹp, tài năng, danh vọng, giàu sang, đức hạnh... Ta cũng có thể có được, với điều
kiện chúng ta chỉ cần thực hiện những cố gắng cần thiết mà thôi.
Một thái độ xử thế thích nghi về điểm này đã được diễn
tả trong cuộc đời của nhạc sĩ trứ danh Paganini. Người ta thuật lại rằng nhạc
sĩ này có lần bị hai năm tù vì mắc nợ không trả được. Trong khi bị giam, hằng
ngày ông vẫn chơi một cây đàn vĩ cầm cũ, chỉ có ba dây. Sau khi được phóng
thích, ông trình diễn đàn vĩ cầm trước công chúng với một ngón đàn sắc xảo tuyệt
diệu hơn trước, làm cho cử tọa phải ngạc nhiên về tài nghệ xuất chúng của ông.
Ngón đàn đặc biệt của ông là mỗi khi đến những đoạn nhạc khó khăn nhất, thì ông
bèn cắn đứt sợi dây dưới của cây đàn vĩ cầm và tiếp tục kéo đàn chỉ có ba dây!
Ngón đàn tuyệt luân này, ông đã học được trong thời gian hai năm ngồi tù.
Việc bị giam cầm trong khám là một điều chướng ngại khó
khăn và là một nghịch cảnh, nhưng Paganini đã phản ứng một cách xây dựng, chứ
không thối chí hay thất vọng. Ngày nào con người còn sống ở thế gian, thì còn
phải bị những nghịch cảnh do quả báo đưa đến. Nhưng chúng ta không nên để cho
nghịch cảnh đè bẹp hoặc làm cho ta bị điêu đứng khổ sở; mà trái lại, giữa cơn
nghịch cảnh, chúng ta cũng vẫn có thể vui sống với một niềm hy vọng.
Khi nghịch cảnh xảy đến không thể tránh khỏi, chúng
ta có thể chấp nhận nó một cách kiên nhẫn, can đảm và vui vẻ; và như thế, chúng
ta xây đắp nền tảng cho sự thành công vẻ vang trong tương lai.
CHƯƠNG 22
TIỀM NĂNG CỦA CON NGƯỜI
Từ những đoạn trên,
chúng ta đã thấy rằng luật Nhân Quả gồm có hai khía cạnh: Khía cạnh liên tục và
khía cạnh chấn chỉnh, hay sửa đổi. Nói về khía cạnh liên tục của luật Nhân Quả,
thì có thể có nhiều khuynh hướng trái ngược từ thuở quá khứ xuất hiện cùng một
lượt trong kiếp này, và tạo nên một sự xung đột bên trong tâm hồn của một người.
Trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce, những
khuynh hướng về khả năng hay tánh tình của một người có thể truy nguyên từ những
kinh nghiệm của người ấy trong một kiếp trước. Thí dụ: Một người kia có những
khuynh hướng về âm nhạc mà ông đã hấp thụ trong một kiếp trước, nhưng đồng thời
ông cũng mang theo một khuynh hướng về ngành dạy học, từ một kiếp trước nữa. Thề
là ông có cả hai khuynh hướng về hai ngành học thuật khác nhau: Âm nhạc và giáo
dục. Những khuynh hướng trái ngược này gây ra một sự xung đột âm thầm trong tâm
hồn ông, khi ông phải chọn lấy một nghề nhứt định. Ông sẽ là một nhạc sĩ hay một
giáo sư? Trong nhiều năm, ông bị dày vò bởi một sự lưỡng lự phân vân, không biết
chọn lấy nghề nào. Sau đó sự xung đột ngấm ngầm này phải được giải quyết bằng
cách dung hòa cả hai khuynh hướng, hay là bỏ một nghề mà chỉ chọn lấy một nghề,
tùy theo lý tưởng của đương sự đối với cuộc đời, hay là do sự nhu cầu tài
chánh.
Một sự xung đột còn khó khăn hơn nữa, là trường hợp
mà đươngsự chưa diệt trừ xong một tật xấu cũ. Thí dụ: Một người có thói khinh
ngạo, di sản từ một kiếp trước, trong kiếp đó ông lạm dụng quyền thế một cách độc
tài đối với một dân tộc bị áp chế. Trong một kiếp sau, ông đầu thai làm một đứa
trẻ tàn tật sống trong một túp lều nghèo nàn. Thói khinh ngạo của ông đã bị chận
đứng vì luật quả báo, và ông đã bắt đầu tập lấy thái độ khoan dung, ôn hoà với
mọi người. Nhưng thói khinh ngạo của ông vẫn chưa được diệt trừ tận gốc, và hãy
còn biểu lộ một phần nào. Bởi đó trong kiếp này, ông có hai khuynh hướng trái
ngược lẫn nhau trong tâm tính, khi thì ông có thái độ khinh ngạo, khi thì có
lòng khoan dung. Chính đương sự cũng biết rõ điều này, và mỗi khi ông nghĩ đến
tình bác ái đại đồng trong nhân loại, ông sẽ bắt đầu cố gắng diệt trừ thói kinh
ngạo còn tiềm tàng trong người. Nhưng phần nhiều, người ta không ý thức được vấn
đề này.
Các tập hồ sơ Cayce có chứa đựng rất nhiều trường hợp
như trên, mà dưới đây là một trường hợp rõ rệt nhất:
Một người kia có hai khuynh hướng trái ngược: Khi
thì khép chặt, cách biệt, lạnh lùng; khi thì lại hồn nhiên, cởi mở. Theo cuộc
soi kiếp, điều này được truy nguyên từ hai loại kinh nghiệm khác hẳn nhau.
Trong một kiếp trước, ông là một tu sĩ trong một nhà tu kín bên Anh, chính kiếp
này đã tạo cho ông một tâm hồn khép chặt và lánh đời. Trong một kiếp trước nữa,
ông là một người tình nguyện tùng chinh trong cuộc Thánh Chiến hồi thời Trung Cổ;
kiếp đó đã giúp cho ông có tâm hồn cởi mở và yêu đời. Sự trái ngược đó làm cho
mọi người đều xa lánh, vì họ không dám chơi với một người tính khí bất thường,
hôm qua vừa mới vui vẻ hồn nhiên, hôm nay đã lạnh lùng cách biệt!
Ông Aldous Huxley có thuật chuyện một tu sĩ Y Pha
Nho hồi thế kỷ mười bảy tên là Pierre Claver, hy sinh tận tụy suốt một đời để
phụng sự những người da đen nhập cảng từ Phi Châu thường bị ngược đãi và đối xử
tàn nhẫn. Tu sĩ thường khuyên những mọi da đen này hãy ăn năn sám hối những tội
lỗi của họ đã làm. Ông Huxley nói: "Lời khuyên đó có vẻ dường như không
đúng chỗ, nhưng biết đâu tu sĩ có lý là vì dầu ở hoàn cảnh nào, con người cũng
vẫn luôn luôn cần phải cứu chuộc lại những tội lỗi và sai lầm trong quá khứ mà
họ phải chịu quả báo. Những sự ngược đãi, hung ác, bất công của người đời biết
đâu chẳng là những cơ hội để nhắc nhở cho chúng ta nhớ lại những hành động hung
dữ, độc ác bất công mà chính chúng ta đã làm trong những kiếp trước?"
Ông Huxley còn nêu ra một vấn đề quan trọng: đó là
điều ảo tưởng nó làm cho ta nghĩ rằng mình là trong sạch và vô tội. Phần nhiều
chúng ta khi lâm nghịch cảnh hay bị những nỗi đau khổ bất công, thường nghĩ rằng
mình là oan ức, vô tội mà phải bị thiệt thòi, chớ không nghĩ rằng có lẽ mình đã
từng gây ra những nỗi bất công đau khổ cho kẻ khác. Chúng ta luôn luôn tưởng rằng
mình tốt lành và vô tội. Có lẽ là do thói kiêu căng vốn tự nhiên trong mọi người,
nhưng còn một lý do khác, đó là sự lãng quên: Một định luật thiên nhiên đầy
nhân từ và bác ái khiến cho chúng ta quên đi một cái dĩ vãng sai lầm và tội lỗi
trong những kiếp quá khứ.
Một người đàn bà nọ phàn nàn: "Tôi luôn luôn đối
xử tốt lành với tất cả mọi người; nhưng người ta đối xử tệ bạc với tôi như vậy.
Con người thật là bạc bẽo và vô ơn!"
Chúng ta có thể đáp lại như vầy: "Phải, bà đã tốt
lành và lương thiện trong kiếp này bởi vì bà nhận thấy rằng về phần thể chất,
bà không đẹp; và bà chỉ có thể thâu phục được lòng người bằng những hành động tốt
lành và vị tha. Nhưng đó chỉ là một đức tánh mà bà mới tập. Bà hãy nhìn lại kiếp
trước: Bà rất đẹp, với một nhan sắc đẹp duyên dáng, sắc xảo, mặn mà, nhưng lòng
bà rất độc! Ngày nay, bà chỉ gặt hái lấy những gì bà đã gieo trong kiếp trước.
Việc bà bị đối xử độc ác và bất công không phải là do bởi sự vô ơn tệ bạc của
người đời; mà đó chỉ là những quả báo của những hành vi độc ác mà bà đã gây ra
đối với kẻ khác. Bà đã trồng hoa thơm cỏ ngọt suốt đời, nhưng bà chỉ lấy gai nhọn
và trái đắng là những thứ mà bà đã gieo trong kiếp trước. Mùa gặt sau, sẽ đem lại
cho bà những hoa thơm trái ngọt mà bà đã gieo trong kiếp này. Trong khi chờ đợi,
bà hãy vui lòng nhận lãnh những quả đắng và gai nhọn, nhưng bà đừng thối chí và
hãy tiếp tục vun trồng hoa thơm trái ngọt một cách can đảm và đầy tin tưởng...
"
Những sự đau khổ và nghịch cảnh trong đời đều có một
mục đích giáo dục để đào tạo tánh tình, dầu cho đó là những tai nạn bên ngoài
như chiến tranh, dịch lệ, động đất, bão lụt; hoặc đó là những mối xung đột ngấm
ngầm trong tâm hồn. Khi nào khoa Tâm Lý Học nhìn nhận rằng tất cả mọi sự đau khổ
cay đắng, tai ương và nghịch cảnh của người đời đều có một ý nghĩa sâu xa thâm
trầm để dìu dắt họ trên con đường tiến hóa, thì chừng đó ngành học thuật ấy đã
tiến được một bước khá lớn.
CHƯƠNG 23
KHÍA CẠNH CỦA LUẬT
NHÂN QUẢ
Trước đây, chúng ta
đã thấy trường hợp của người nhạc sĩ mù, mà nguyên nhân là do bởi kiếp trước,
trong một bộ lạc dã man ở Ba Tư, ông đã lấy dùi sắt nhọn nung đỏ chọc vào mắt
những kẻ tù binh để hành tội những người này. Trong trường hợp này, người ta sẽ
đặt câu hỏi: "Tại sao ông lại chịu trách nhiệm về những phong tục bổn xứ hồi
đương thời? Tại sao một người phải bị quả báo trong khi ông chỉ thừa hành chức
vụ mà xã hội giao phó cho ông?"
Thí dụ, hồi xưa nước Pháp dùng những đao phủ quân để
hành tội những phạm nhân trên đoạn đầu đài. Người đao phủ ấy chỉ là một công chức
của Nhà Nước và làm việc ăn lương của chính phủ. Có thể nào người ấy bị quả báo
khi ông thừa hành chức vụ chém đầu tội nhân do luật pháp bắt buộc chăng? Nếu là
không, thì tại sao người đao phủ của bộ lạc dã man nước Ba Tư hồi thời cổ, lấy
dùi sắt nung đỏ chọc vào mắt tù binh của một bộ lạc cừu địch, lại phải chịu quả
báo? Trước đây chúng ta đã thấy rằng không phải hành động gây nên nghiệp quả mà
chính là cái nguyên nhân làm động lực bên trong cho hành động ấy, chính cái
tinh thần bên trong làm chủ động cho mọi việc làm, mới là cái nguyên nhân tạo
nên nghiệp quả. Ngoài ra, còn có vấn đề trách nhiệm chung, hay nghiệp quả công
cộng, nghĩa là nếu một xã hội có những tập quán xấu xa, độc ác gây nên đau khổ
cho nhiều người thuộc về xã hội đó đều phải chia xẻ một phần nào trách nhiệm và
quả báo của xã hội ấy gây nên. Theo ý nghĩa của nền luân lý thông thường, nếu
những hành vi tàn bạo như sát phạt, giết chóc, gây thương tích cho kẻ khác, tuyệt
đối là những điều ác dữ, thì tất cả những người nào thuộc về thành phần của xã
hội tàn bạo đó đều phạm tội, nếu không trực tiếp thì cũng gián tiếp. Tội ác đó
càng tăng nếu họ biết rằng phong tục tập quán đó là độc ác, mà họ vẫn tiếp tục
tán thành và không làm gì để trừ bỏ những thói tàn bạo hung ác ấy. Và nếu họ trực
tiếp nhúng tay vào những hành động hung dữ ấy, thì tội ác của họ càng tăng hơn
nhiều.
Lấy dùi sắt nhọn chọc thủng mắt những người khác chỉ
vì họ là tù binh của một bộ lạc cừu địch, dĩ nhiên là một hành động hung ác bạo
tàn. Nếu người đao phủ tự trong lòng ông chống đối việc làm hung bạo này, và chỉ
thừa hành chức vụ vì bắt buộc phải tuân lệnh thượng cấp, thì có lẽ ông không
gây nên nghiệp ác. Nhưng nếu trong khi thừa hành chức vụ, tự trong lòng ông tán
thành việc làm hung ác này, nghĩa là ông cũng nuôi trong lòng một sự hung ác
tương đương với phong tục bổn xứ của ông, thì chắc chắn là ông phải chịu quả
báo.
Vấn đề này được giải đáp một cách mỹ mãn trong kinh
Bhagavad Gita của Ấn Độ: "Làm mà như không làm, tuy hữu vi mà vô vi, nghĩa
là làm một cách vô tư, với một tinh thần giải thoát, không bám víu, không vụ lợi;
đó tức là cái bí quyết của sự hành động cao thượng, siêu thoát, và không gây
nên nghiệp quả... "
Thậm chí đến tình thương cũng phải là một tình
thương vô tư, không tha thiết, không chiếm hữu, một tình thương siêu thoát, chứ
nếu không, nó sẽ tạo nên những sợi dây trói buộc trong kiếp sau. Nếu người đao
phủ xứ Ba Tư kể trên chỉ thừa hành chức vụ với một tinh thần hy sinh theo như
việc làm của những nhà hiền triết thời xưa, không thỏa mãn dục vọng riêng,
không có lòng hung dữ bạo tàn và đàn áp kẻ khác, thì ông sẽ không gây nên ác quả.
Theo lý luận đó, vì lẽ người ấy đã bị quả báo mù mắt trong kiếp này, nên ta có
thể kết luận rằng ông đã nuôi thói hung ác trong khi thừa hành chức vụ, theo
phong tục bổn xứ của y.
Trong chương mười một, chúng ta đã thấy rằng sự hiểu
biết về Luật Nhân Quả không khỏi làm cho người ta băn khoăn lưỡng lự trước một
vài vấn đề xã hội, và không biết sẽ hành động như thế nào cho hợp lý. Chúng ta
đã thấy rằng trong nhiều trường hợp, sự lạm dụng quyền năng trong những kiếp
quá khứ đã đưa đến cảnh nghèo khổ, khó khăn trắc trở trong kiếp hiện đại. Nếu
phần nhiều sự đau khổ buồn rầu của con người đều do bởi những việc làm ác của họ
gây nên trong quá khứ thì ta phải đối xử thế nào với những kẻ hoạn nạn khốn
cùng? Ta phải có thái độ như thế nào đối với hoàn cảnh khó khăn đau khổ của kẻ
khác? Ta có nên ngảnh mặt làm ngơ và nói như thế này chăng: "Này ông bạn
ơi, ông bạn đau khổ vì quả báo của ông bạn tự gây ra, chứ không phải oan uổng
gì đâu. Tôi không còn quyền can thiệp vào sự hành động của Luật Nhân Quả".
Ta có nên nghĩ rằng sự thiện cảm là một thái độ trái
mùa, và lòng nhân từ là một điều không phải chỗ của nó trước sự hành động vô tư
của Luật Nhân Quả hay chăng? Có lẽ ta không nên giải đáp những câu hỏi đó một
cách hấp tấp vội vàng, và với một sự cảm tình bồng bột. Chúng ta biết rằng một
kẻ sát nhân nguy hiểm sẽ không học được bài học của y, nếu vì lòng nhân hậu quá
đáng, người ta để cho y được tự do có điều kiện sau một thời gian giam cầm ngắn
ngủi. Chúng ta biết rằng một người học trò dốt không thể học hết chương trình lớp
học của y, nếu ông giáo sư quá dễ dãi để cho y về sớm ba giờ mỗi ngày. Chúng ta
biết rằng một đứa trẻ không thể biết vâng lời, nếu người mẹ luôn luôn bênh vực
con, không để cho nó chịu hình phạt nghiêm khắc và roi vọt của người cha. Chúng
ta biết rằng những khó khăn trắc trở và đau khổ của người đời, dưới hình thức
những tật nguyền, tại nạn, nghèo khổ... Thật ra là sự biểu hiện ý muốn cải thiện
và giáo dục của Thiêng Liêng. Như vậy, làm sao ta dám can thiệp vào sự hành động
của Thiên ý, và phá luật lệ thiên nhiên?
Thí dụ, chúng ra thấy một người kia sống trong cảnh
lầm than khốn khổ, nghèo nàn cơ cực, với một thân hình tàn phế, tật nguyền,
chúng ta không khỏi động lòng thương hại. Nhưng nếu chúng ta xét mọi sự theo
khía cạnh Nhân Quả, chúng ta cũng có thể nhìn thấy con người bất hạnh ấy dưới một
hình thức khác. Chúng ta có thể nhìn về dĩ vãng và tưởng tượng người ấy trong một
vai trò khác, với một bộ y phục khác và sống trong một thời đại khác hơn bây giờ.
Chúng ta có thể tưởng tượng con người vô phước ấy dưới
những nét của một vị lãnh chúa nước Nga hồi thời Nga Hoàng; một vị lãnh chúa có
một thân hình cao lớn, lực lưỡng, khỏe mạnh, nhưng lại hung tợn, độc ác và vô
nhân đạo. Với những tài sản khổng lồ, giàu sang không kể xiết, ông đã tỏ ra lạnh
nhạt dửng dưng trước sự đau khổ của những người nông dân đã làm việc cặm cụi suốt
đời để làm giàu cho ông. Với một thân hình tráng kiện, sức khỏe dồi dào, ông đã
hiên ngang hống hách, khinh thường những kẻ yếu đuối, đối xử tàn nhẫn với đàn
bà, trừng phạt thẳng tay không chút lòng thương xót đối với những kẻ đã làm mất
lòng ông. Đó là hình ảnh cho người của ông trong kiếp trước. Nhìn chung quanh
ông, ta thấy những nạn nhân của ông đang sống vất vưỡng, dở chết dở sống trên
những vùng hoang vu lạnh lẽo ở xứ Tây Bá Lợi Á, do bởi ông đã dùng quyền lực áp
chế để đày ải họ sang xứ này. Ta thấy những trẻ con xanh xao gầy còm, mặt mày
ngơ ngác vì đói lạnh, bởi cha mẹ chúng là những nông dân nô lệ, suốt đời phục dịch
vị lãnh chúa tàn bạo, nhưng vẫn không đủ cơm ăn áo mặc, vợ con phải chịu đói
rách quanh năm.
Khi chúng ta nhìn thấy cảnh tượng kiếp trước của người
ấy như thế, một cảnh tượng có thể diễn ra ở bất cứ nơi nào trên thế giới, trong
những thời đại đã qua, thì chúng ta biết rằng ông sẽ có lúc phải trả quả báo về
những tội ác của ông đã làm. Và ngày nay, chúng ta đã gặp lại ông trong bộ áo của
một kẻ hành khất khốn khổ lầm than, thân hình tàn phế, chúng ta có thể nào còn
thương hại ông được chăng? Gặp cảnh này, chúng ta đã đứng trước một vấn đề tâm
lý, luân lý và xã hội có một tầm quan trọng rất lớn, một vấn đề mà chúng ta cần
phải hiểu rõ trong việc xử thế hằng ngày. Người ta đã tìm thấy một phương pháp
giải quyết vấn đề này trong chế độ xã hội của một xứ trên thế giới là xứ Ấn Độ.
Vấn đề mà chúng ta nêu ra khi chúng ta vừa mới chấp
nhận thuyết Luân Hồi, người Ấn Độ đã từng biết rõ từ bao nhiêu thế kỷ về trước.
Người Ấn Độ đã giải quyết vấn đề này bằng cách không can thiệp vào sự hành động
của luật nhân quả. Điều này giải thích một phần lớn thái độ thản nhiên của họ đối
với những kẻ đau khổ, hoạn nạn, khốn cùng, và cách đối xử đặc biệt mà họ dành
cho những người thuộc giai cấp cùng đinh (paria). Chế độ giai cấp ở Ấn Độ vốn
căn cứ trên pháp luật của đức Manou, một luật gia và triết gia danh tiếng của Ấn
Độ thời cổ. Cũng như Platon, Ngài tuyên bố rằng theo luật tự nhiên, xã hội loài
người chia ra từng thành phần, tùy theo công việc hay chức nghiệp của mỗi người.
Điều huấn thị này về sau trở nên một tập quán xã hội, và tập quán đó dần dần kết
tinh lại thành ra một trật tự về giai cấp. Truyền thống, phong tục và thói dị
đoan của một dân tộc gồm đến chín mươi phần trăm những kẻ thất học, đã làm cho
tập quán nói trên trở thành bất di dịch, không thể sửa đổi.
Giai cấp hạ tiện gồm thành phần những người làm những
công việc ti tiện, thấp kém nhất trong xã hội. Giai cấp này về sau trở nên
thành phần "Bất khả tiếp xúc" (intouchable), do sự lý luận rằng nếu họ
đầu thai làm những người thuộc giai cấp hạ tiện đó, là để trả quả báo về những
việc làm xấu xa và tội ác của họ trong một kiếp trước. Bởi lý luận đó, người ta
không can thiệp vào luật Trời khiến cho họ phải lầm than khổ sở, mà cứ dửng
dưng trước sự hành động tự nhiên của Luật Quả Báo.
Nếu chúng ta chấp nhận lý lẽ thứ nhứt của người Ấn Độ,
theo đó Luật Nhân Quả đặt để ta vào một hoàn cảnh hay thân phận thích nghi,
tương xứng với nghiệp quả của mình, và nếu chúng ta cũng chấp nhận luôn lý lẽ
thứ hai của họ về đẳng cấp trong xã hội, thì ta thấy rằng lập luận của họ rất vững
chắc và rất có lý. Lập luận ấy dầu rằng có cái lý lẽ vững chắc, nhưng nếu nó
đưa chúng ta đi đến kết luận là phải dửng dưng trước sự đau khổ của kẻ khác,
thì đó thật là một điều đáng buồn! Tuy thế, ta cũng thấy có những người luôn
luôn cố gắng hoạt động trong các công trình cứu tế để làm dịu bớt sự đau khổ của
nhân loại. Đó là bởi vì họ có lòng nhân từ bác ái đến một mực độ rất cao.
Thấy vậy, lòng bác ái tức là tình thương bao la phủ
nhận lý luận của những kẻ thản nhiên, bất can thiệp, mặc dầu lý luận này bề
ngoài dường như có lý. Chính đó là ý nghĩa lời răn dạy của đấng Christ, vì Ngài
đã dành trọn cuộc đời để đi truyền giáo và chữa bịnh cho người thế gian mê lầm
và đau khổ. Cuộc đời của đấng Christ đã chứng minh rằng dầu cho tội lỗi của con
người nặng đến đâu, ta cũng phải luôn luôn đưa ra một cánh tay cứu giúp.
Cuộc đời của ông Edgar Cayce tuy không thể đem so
sánh với đấng Christ, nhưng ông cũng là một người với tinh thần cứu độ chúng
sinh giống như đấng Christ, vì trong bốn mươi năm, ông đã hoạt động với một tấm
lòng nhiệt thành và bác ái để cứu giúp những người đau khổ từ thể xác đến tinh
thần. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đều xác nhận rõ ràng quan niệm này, là
đời người bị chi phối và cai quản bởi một định luật rất khoa học, đó là Luật
Nhân Quả mà phương Đông đã biết rõ từ lâu đời. Đồng thời, những cuộc soi kiếp
đó cũng xác nhận định luật bác ái nhân từ và lý tưởng phụng sự, là những điểm cốt
yếu trong giáo lý của mọi tôn giáo.
Không cần biết về tội lỗi của người khác ra sao
trong những kiếp quá khứ, chúng ra nên cố gắng giúp đỡ họ, và đừng lầm tưởng rằng
làm như thế, chúng ta có thể can thiệp vào sự hành động của Luật Nhân Quả.
Ngoài ra, chúng ta nên hiểu rằng dửng dưng nguội lạnh trước sự đau khổ của kẻ
khác cũng là một tội ác mà chúng ta phải chịu quả báo về sau này. Một khía cạnh
khác của vấn đề tế nhị này là con người có quyền tự do ý chí trong mọi hành động,
và không phải tất cả mọi việc lớn nhỏ trong đời đều đã được định sẵn từng chi tiết
theo một cái định mệnh bất di dịch.
Bởi đó, sự cố gắng của chúng ta để giúp đỡ một người
đau khổ hoạn nạn, không phải chỉ là một kinh nghiệm bản thân cần thiết cho ta để
tự cải thiện lấy mình trong sự thực hành tình bác ái mà thôi, nó còn là một điều
quý báu có thể làm thay đổi cả một thái độ tinh thần, và cả một cuộc đời của
đương sự. Xét cho cùng, ta nên hiểu rằng nghiệp quả là do tư tưởng tạo nên. Sự
sinh hoạt trái đạo, cách xử thế sai lầm, nguyên nhân là do sự lầm lạc trong tư
tưởng. Bởi đó, người ta chỉ có thể hoàn toàn thay đổi thái độ đối với cuộc đời
bằng ách hoàn toàn cải tạo tư tưởng. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã tuyên
bố một cách rất đúng rằng tư tưởng chính là sức mạnh sáng tạo, và trừ phi có sự
thay đổi tư tưởng ở tự nơi mình, người ta không thể nào cứu chuộc và sửa đổi lại
những nghiệp quả xấu đã gây từ trước.
Hiểu theo một ý nghĩa thần bí, các tôn giáo cho rằng
Thượng đế sáng tạo ra con người; nhưng theo ý nghĩa thiết thực thì con người tự
sáng tạo lấy mình! Luật Nhân Quả là cái định luật theo đó con người tự tạo nên
cái thân phận sang hèn, may rủi, tốt xấu, vui buồn của chính mình. Luật Nhân Quả
đặt con người trong sự kiềm tỏa, trói buộc và đặt họ trong vòng kỷ luật để cho họ
tự tu tiến lấy bản thân, nhưng đồng thời nó cũng là kẻ giải phóng và là một người
bạn tốt. Biết rõ điều này, người Phật tử luôn luôn giữ thái độ hồn nhiên, thanh
thoát trước mọi nghịch cảnh, mọi nỗi thăng trầm chìm nổi của cuộc đời và nói:
"Phật Pháp là chỗ trú ẩn của ta".
Đối với những người thông hiểu mục đích tốt lành của
mọi định luật thiên nhiên trong Trời Đất, thì câu nói đó cũng có ý nghĩa đầy đủ
với những tính cách an ủi và khích lệ như câu tương tự của người tín đồ Gia Tô
Giáo: "Chúa Trời là niềm vui, là Ánh Sáng, và là đấng Che Chở của ta".
CHƯƠNG 24
MỘT PHƯƠNG CHÂM XỬ THẾ
Trong thời gian chữa
bệnh giúp đời, ông Cayce đã nhận được nhiều thơ tín từ khắp nơi trên thế giới gửi
đến. Đọc những bức thư đó, người ta không khỏi lấy làm buồn tủi, nghẹn ngào và
động lòng trắc ẩn trước bao nỗi đoạn trường, đau khổ, lầm than của nhân loại.
Ông Cayce đã không quản công lao khó nhọc, làm việc không tiếc thân, bất kể
ngày đêm, để giúp đỡ tất cả mọi người bằng những cuộc soi tiền kiếp, giúp đỡ và
bày vẽ phương pháp điều trị bịnh tật, cùng phương pháp giải quyết những nỗi khó
khăn đau khổ trong cuộc đời của họ.
Có những bức thư trình bày những nỗi thắc mắc, băn
khoăn của đương sự, chẳng hạn như của một thiếu phụ viết như sau: "Tôi tự
hỏi không biết ông có thể dành cho tôi một cuộc soi kiếp để giúp ý kiến về đời
sống tình cảm của tôi chăng? Tôi thật không còn biết tính sao? Tôi muốn tái giá
và hy vọng có một gia đình ấm cúng, hạnh phúc, nhưng tôi e ngại không biết có lấy
được người chồng vừa ý hay không, hay là có lẽ tôi không nên nghĩ đến việc tái
giá nữa? Và chắc có lẽ cũng không có ai thương yêu tôi?"
Một người đàn bà khác viết: "Làm sao cho chồng
tôi thay đổi tính tình, để cho gia đình tôi được sống trong bầu không khí yên
vui và hạnh phúc?"
Những người viết thơ bày tỏ tâm sự, dầu là thông
minh hay dốt nát, giàu hay nghèo, sang hay hèn, tất cả đều tiết lộ cho ta thấy
sự thắc mắc băn khoăn của nhân loại. Dầu họ là những người nhút nhát, tánh tình
khép chặt, cô đơn, bệnh tật, thất bại trên đường đời hoặc gia đình rối rắm, họ
đều có một nguyện vọng chung, là cải tiến tình trạng hiện tại để làm cho số phận
của họ trở nên tốt đẹp hơn. Trong hầu hết mọi trường hợp, họ đều được cho biết
rằng nguyên nhân tình trạng đau khổ của họ là do chính họ tự gây ra. Đó là điểm
đầu tiên mà đương sự phải nhìn nhận. Xét cho cùng, mỗi người tự tạo lấy những
khó khăn đau khổ cho mình, và bởi đó chính họ phải tự giải quyết những nỗi khó
khăn đau khổ đó.
Bất luận sự khó khăn trắc trở đó như thế nào, như khổ
về sự cô đơn; hoặc vì người chồng tánh tình xung khắc, không thể cùng nhau hòa
hợp; vì một đứa con hư hỏng; một hoàn cảnh chật hẹp tù tùng chẳng hạn; chúng ta
chỉ có thể vượt qua được sự khó khăn bằng cách tự sửa đổi lấy tâm tính của
mình. Điều cần phải sửa đổi, chính là cái thái độ tinh thần và cách xử thế hằng
ngày của chúng ta vậy. Hãy dẹp bỏ tánh hay chỉ trích, chê bai, sẵn sàng lên án
những người chung quanh, tánh thù vặt, kiêu căng, ngã mạn, dửng dưng, lạnh
lùng. Hãy trừ bỏ thói ích kỷ, khinh mạn, đố kỵ. Những khó khăn chướng ngại của
ta chỉ có thể giải quyết được bằng cách tu sửa tánh tình, tập lấy những đức
tính tốt lành, nhân đức, thuộc về địa hạt tâm linh.
Sự giáo dục tâm linh và thay đổi thái độ trong cách
xử thế hằng ngày phải được đặt trong khuôn khổ một sự hiểu biết sâu xa về Vũ Trụ,
cùng những mối liên quan về Vũ trụ và Con Người. Quan niệm đó biểu lộ rõ rệt
trong các tập hồ sơ Cayce và những cuộc soi kiếp mà ông đã thực hiện cho hằng
trăm người. Quan niệm ấy gồm có những đường lối đại cương như sau:
Có một Quyền Năng Sáng Tạo vô biên mà người ta gọi
là Thượng Đế
Mỗi linh hồn là một phần tử của Thượng Đế.
Đời người có một mục đích, và diễn ra một cách liên
tục. Đời sống con người vẫn tiếp tục luôn luôn sau khi chết.
Đời người được cai quản bởi những định luật Luân Hồi
và Nhân Quả: "Thực hiện lòng bác ái tức là thuận theo Cơ Trời."
"Ý chí con người tạo nên định mệnh".
"Tư tưởng có một quyền năng sáng tạo".
"Sự giải đáp cho mọi vấn đề khó khăn là ở tự
nơi linh hồn mỗi người... "
Căn cứ trên những điều ấy, là những điều răn dạy sau
đây:
"Ta hãy bắt đầu tìm hiểu những mối tương quan
giữa mình và những Sức Mạnh Sáng Tạo của Vũ Trụ, hay Thượng Đế".
"Ta hãy đặt mục đích và lý tưởng trong đời
mình, và hãy cố gắng thực hiện những lý tưởng đó".
"Hãy hoạt động, kiên nhẫn, và vui vẻ luôn luôn".
"Đừng nghĩ đến kết quả của việc làm, hãy dâng mọi
kết quả lên Thượng Đế".
"Đừng trốn tránh những khó khăn xảy đến cho ta".
"Hãy làm mọi việc lành để giúp đỡ kẻ khác".
Nhiều người phương Tây không chấp nhận quan niệm của
những tôn giáo Phương Đông về Vũ trụ và nhân sinh, nhưng quan niệm này đã được
những cuộc soi kiếp của ông Cayce xác nhận. Tuy nhiên, mặc dầu họ không thể chấp
nhận quan niệm đó vì thiếu bằng chứng khoa học xác đáng, chặt chẽ hơn là những
bằng chứng trong hồ sơ Cayce, họ cũng không thể phủ nhận một cách dễ dàng tánh
cách đúng đắn, hợp lý và làm thỏa mãn lý trí của thuyết Luân Hồi, cùng lập luận
vững chắc và thỏa đáng của thuyết ấy trên các phương diện tâm lý, luân lý và
khoa học. Đối với người nào có thể chấp nhận thuyết Luân Hồi, thì nó đem lại
cho họ một lẽ sống mới, một kim chỉ nam để soi hướng và dìu dắt họ trên đường đời,
và một sự quả quyết chắc chắn rằng họ sẽ không bị lạc bước trong chốn mê đồ gồm
những sức mạnh tối tăm, cuồng loạn, và không mục đích.
CHƯƠNG 25
KẾT LUẬN
Trong những trang vừa
qua, chúng ta đã đi hết một quãng đường dài, bắt đầu từ một câu chuyện nhỏ xảy
ra trong một phòng khách sạn ở Dayton, Ohio, Hoa Kỳ, khi ông Edgar Cayce dùng
Thần Nhãn trong lúc thôi miên, lần đầu tiên cho biết Luân Hồi là một điều có thật
trong cõi Thiên Nhiên. Câu chuyện ấy và những chuyện tương tự khác nối tiếp
theo sau về vấn đề Luân Hồi có vẻ dường như một nền tảng chưa đủ vững chắc để
xây dựng trên đó cả một tòa lâu đài tâm lý và triết lý mà chúng ta đã thấy những
nét đại cương trong quyển sách này. Tuy nhiên, xét về lịch sử khoa học, người
ta thấy rằng những sự phát minh lớn lao làm đảo lộn cả một thế hệ, dường như chỉ
bắt đầu bằng những câu chuyện nhỏ nhặt vô lý. Một cái đùi ếch bị điện giựt và một
mẩu bánh mì mốc meo dường như là những sự vật quá nhỏ mọn không đủ dùng để phát
minh ra bình điện khí và thuốc trụ sinh (Penicilline) nhưng sự thật đó chính là
những nguyên nhân đưa đến hai sự phát minh kỳ diệu trên. Một ngọn đèn lồng đưa
lủng lẳng trong một nhà thờ cổ ở một làng nhỏ bên Ý đã đưa ông Galilée đến việc
phát minh ra một đồng hồ thiên văn. Một bồn nước tràn đã giúp cho ông Archimede
tìm ra một định luật quan trọng về áp lực của chất nước.
Lịch sử đã đưa đến cho ta nhiều thí dụ tương tự.
Chúng ta phải nhìn nhận sự thật có thể tìm ra được từ những chỗ rất giản dị tầm
thường, và chúng ta cũng sẽ không ngạc nhiên mà thấy người học thức ít ỏi,
không tài ba, thiếu văn hóa, nằm trong giấc ngủ thôi miên, lại có thể đưa ra những
bằng chứng quan trọng để chứng minh cho một thuyết căn bản lạ lùng về đời sống
con người.
Chúng ta hãy tóm tắt những gì đã chứng minh cho sự
thật của những cuộc soi kiếp của ông Cayce, ngoài ra vô số những bằng chứng hiển
nhiên khác về sự thật của hiện tượng Thần Nhãn. Có tất cả bảy điểm chính sau
đây:
1.- Sự phân tách tâm lý và diễn tả hoàn cảnh bên
ngoài của những người hoàn toàn xa lạ ở cách xa hàng trăm cây số; và trong hằng
ngàn trường hợp, đã tỏ ra đúng y như thật.
2.- Sự tiên đoán về những thiên tư, khả năng và những
điểm khác của đương sự, đã được chứng thực trong nhiều năm sau, không những cho
người lớn, mà cũng cho trẻ sơ sinh.
3.- Những đặc điểm về tánh tình của đương sự được
truy nguyên một cách hợp lý từ những kinh nghiệm thâu nhập ở các kiếp trước.
4.- Những lời tiên đoán đều đúng và không hề trái
ngược nhau, không những trên nguyên tắc đại cương mà thôi, mà cũng trong từng
chi tiết nhỏ nhặt, trong hằng trăm các cuộc soi kiếp khác nhau, và ở những thời
ký khác nhau.
5.- Những tài liệu lịch sử lu mờ đã được kiểm điểm lại
bằng cách tra cứu các văn khố; những tên tuổi của các nhân vật vô danh đã được
tìm thấy tại những địa điểm mà các cuộc soi kiếp đã nêu ra.
6.- Những cuộc soi kiếp cùng những lời khuyên mà
đương sự đã chấp nhận và nghe theo, đã giúp cho nhiều người thay đổi cuộc đời của
họ về các phương diện tâm lý, nghề nghiệp, và sức khỏe thể chất.
7.- Những lời khuyên nhủ và răn dạy có tính cách triết
lý và tâm lý trong các cuộc soi kiếp đều hạp với lẽ Đạo, đúng như nền Đạo lý cổ
truyền đã từng đem giảng dạy ở Ấn Độ từ nhiều thế kỷ.
Nói tóm lại, đó là bảy điều quan trọng chứng minh
cho những cuộc soi kiếp bằng Thần Nhãn của ông Cayce, và xác nhận sự thật về
thuyết Luân Hồi. Người ta có thể cho rằng đó chưa phải là những bằng chứng cụ
thể và mười phần xác đáng, nhưng nó vẫn có giá trị không kém. Dầu cho lập luận
khoa học chứng minh rằng Trái Đất tròn, thì thời kỳ đó cũng chỉ là một sự phỏng
đoán mà thôi, chứ chưa có ai đã thật sự thấy tận mắt hình tròn của Trái Đất. Sự
thật về hột nguyên tử cũng chỉ là một sự phỏng đoán, chứ chưa có người nào đã
thấy tận mắt một hột nguyên tử. Tuy vậy, căn cứ trên những sự ức đoán đó, người
ta đã đi du lịch vòng quanh Trái Đất, và đã chế tạo quả bom nguyên tử, mà ảnh
hưởng tàn phá mãnh liệt của nó, không ai có thể chối cãi là không có! Như vậy,
thật không phải là một điều không tưởng quá đáng mà nói rằng người ta nên bắt đầu
có những cuộc sưu tầm và thí nghiệm khoa học về thuyết Luân Hồi, căn cứ trên những
cuộc soi kiếp bằng Thần Nhãn của ông Cayce.
Những người chủ trương thuyết Luân Hồi chỉ có thể hy
vọng rằng những ai muốn tìm sự giải đáp thỏa đáng cho những điều bí ẩn của đời
người, hãy chấp nhận thuyết Luân Hồi như một nguyên tắc cốt yếu cho sự tìm tòi
của họ. Họ hãy sống với thuyết ấy, hãy cư xử, hành động thuận chiều với nó
trong một thời gian, họ hãy tự xét mình, xét người chung quanh, và nhìn xem cuộc
đời thế gian theo những nguyên tắc giản dị nhưng rất có ý nghĩa của thuyết Luân
Hồi, rồi họ sẽ nhận thấy rằng đâu là Chân Lý.
Nếu quả thật thuyết Luân Hồi là một định luật của
nhân sinh, do đó con người tiến hóa và trở nên Toàn Thiện; nếu quả thật đó là
Chân Lý giản dị của cuộc đời, và là cái bí quyết then chốt của sự sống và của vấn
đề đau khổ, thì đây là một sự kiện mới, có thể làm đảo lộn trào lưu tư tưởng của
thế hệ, và làm thay đổi được cuộc đời của một số rất đông người.
Sự hiểu biết về định luật Luân Hồi sẽ đem đến cho
chúng ta một nguồn khích lệ và can đảm. Nó cũng đem đến cho ta một viễn ảnh mới
mẻ, tốt đẹp và huy hoàng về Vũ Trụ Nhân Sinh; một sự hiểu biết sâu xa, tế nhị
và thâm trầm về cuộc đời, để giúp chúng ra có thể chịu đựng một cách vui vẻ,
bình tĩnh và hồn nhiên, tất cả mọi sự thử thách đắng cay và đau khổ của định mệnh.
HẾT
Nguồn:
http://www.hoclamgiau.vn